Trả lời:
Hiện nay, quy định của pháp luật về tiền lương thưởng của các thành viên trong Hội đồng quản trị đã được quy định khá rõ ràng.
Vì trong câu hỏi của bạn chưa hỏi rõ chế độ tiền thưởng và tiền lương của các thành viên Hội đồng quản trị của Doanh nghiệp Nhà nước (được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước - chưa chuyển đổi mô hình theo Điều 166 - Luật doanh nghiệp năm 2005) hay Doanh nghiệp cổ phần (được thành lập theo Luật Doanh nghiệp năm 2005), nên chúng tôi xin trả lời câu hỏi của bạn đối với cả 2 trường hợp này như sau:
Đối với chế độ tiền lương, tiền thưởng của thành viên Hội đồng quản trị của Doanh nghiệp Nhà nước: Theo Nghị định số 207/2004 / NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính Phủ "Quy định chế độ tiền lương, tiền thưởng và chế độ trách nhiệm đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc công ty nhà nước", thì tiền lương của các thành viên Hội đồng quản trị chuyên trách được được xếp lương chức vụ. Còn thành viên Hội đồng quản trị không chuyên trách được hưởng phụ cấp trách nhiệm.
Tiền lương và phụ cấp trách nhiệm của thành viên Hội đồng quản trị được trả căn cứ vào việc thực hiện lợi nhuận và năng suất lao động của công ty theo nguyên tắc: lợi nhuận và năng suất lao động tăng thì tiền lương, phụ cấp tăng. Lợi nhuận và năng suất lao động giảm thì tiền lương, phụ cấp giảm. Nhưng thấp nhất bằng mức lương tính trên cơ sở hệ số lương theo hạng công ty, phụ cấp lương (nếu có) và mức lương tối thiểu chung.
Quỹ tiền lương của thành viên Hội đồng quản trị (gồm tiền lương của thành viên chuyên trách và phụ cấp trách nhiệm của thành viên không chuyên trách Hội đồng quản trị) được xác định theo năm, hàng tháng được tạm ứng tối đa bằng 80% quỹ tiền lương kế hoạch. Phần còn lại được thanh toán vào cuối năm theo mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Quỹ tiền lương này không nằm trong đơn giá tiền lương của công ty nhưng được hạch toán vào giá thành hoặc chi phí kinh doanh.
Thành viên Hội đồng quản trị hàng năm được thưởng từ Quỹ thưởng của Ban quản lý điều hành và từ quỹ khen thưởng của công ty. Quỹ tiền thưởng này được trích hàng năm và được trích tối đa không quá 60% để thưởng cuối năm, phần còn lại dùng để thưởng sau khi kết thúc nhiệm kỳ.
Khi kết thúc nhiệm kỳ, nếu tổng lợi nhuận thực hiện không thấp hơn tổng lợi nhuận kế hoạch của cả nhiệm kỳ thì các thành viên Hội đồng quản trị được hưởng phần tiền thưởng còn lại, nếu tổng lợi nhuận thực hiện thấp hơn tổng lợi nhuận kế hoạch của cả nhiệm kỳ thì cứ giảm 1% tổng lợi nhuận thực hiện, phải giảm trừ 0,5% phần tiền thưởng còn lại.
Nếu các thành viên Hội đồng quản trị để xảy ra một trong các trường hợp như mất vốn, để công ty thua lỗ, để xảy ra sai phạm về quản lý vốn, tài sản... nếu chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được nâng bậc lương hoặc phải hạ bậc lương, không được hưởng lương theo hệ số điều chỉnh, không được thưởng…
Trong công ty cổ phần, khái niệm tiền lương của các thành viên Hội đồng quản trị (như doanh nghiệp Nhà nước) không được đặt ra, và đã được thay bằng chế độ thù lao công việc và tiền thưởng. Theo Điều 117 Luật doanh nghiệp năm 2005, thành viên Hội đồng quản trị được trả thù lao công việc và tiền thưởng dựa trên kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty (điểm a, khoản 2, Điều 117). Nếu Điều lệ công ty không có quy định khác, thì thù lao, và tiền thưởng của các thành viên Hội đồng quản trị được trả theo quy định sau đây:
Thù lao công việc được tính theo số ngày công cần thiết hoàn thành nhiệm vụ của thành viên Hội đồng quản trị và mức thù lao mỗi ngày. Hội đồng quản trị dự tính mức thù lao cho từng thành viên theo nguyên tắc nhất trí và tổng mức thù lao sẽ được trình Đại hội đồng cổ đông quyết định tại cuộc họp thường niên.
Thù lao của thành viên Hội đồng quản trị được tính vào cho phí doanh nghiệp theo pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và được thể hiện thành mục riêng trong báo cáo tài chính hàng năm của công ty, phải báo cáo Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên (Khoản 3 Điều 117).
Cũng theo Điều 117 Luật doanh nghiệp 2005, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác, thì tiền thưởng cho thành viên Hội đồng quản trị được xác định dựa trên kết quả kinh doanh của công ty (mặc dù không quy định chi tiết là thưởng theo tỷ lệ bao nhiêu).
Vì vậy, trên thực tế, các công ty dựa trên quy định này của pháp luật (và/hoặc quy định của Điều lệ Công ty không trái với quy định này) để xây dựng phương án về tiền thưởng cho phù hợp với tình hình thực tế của từng Công ty để trình Đại hội đồng cổ đông xem xét, thông qua.
Thông thường các định mức thưởng này được xây dựng dựa trên kế hoạch kinh doanh và chỉ tiêu phát triển của công ty trong năm tiếp theo. Theo đó, hàng năm nếu tổng kết kế hoạch năm, công ty đạt hoặc vượt những chỉ tiêu kế hoạch - đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua - thì Hội đồng quản trị đương nhiên được hưởng thù lao và tiền thưởng theo tỷ lệ đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Ngược lại, trường hợp công ty gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh dẫn tới không đạt được chỉ tiêu theo kế hoạch đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua - thì đương nhiên Hội đồng quản trị sẽ không được hưởng mức tiền thưởng đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua trước đó .
Với các quy định của pháp luật như trên, thông thường tiền thù lao và tiền thưởng của các thành viên cụ thể trong Hội đồng quản trị được xác định dựa trên sự nhất trí giữa các thành viên trong Hội đồng quản trị về việc phân chia một tổng mức thù lao, tiền thưởng hàng năm được áp dụng dựa trên căn cứ là các chỉ chiêu kế hoạch kinh doanh hàng năm (như phân tích trên đây). Mức thù lao, tiền thưởng này sẽ được trình Đại Hội đồng cổ đông xem xét, quyết định trong kỳ họp thường niên bằng việc thông qua báo cáo tài chính hàng năm và thông qua các mục tiêu, kế hoạch cho năm tài chính tiếp theo.
(Câu trả lời do Công ty Chứng khoán Habubank - HBBS cung cấp)
Bạn muốn chia sẻ thông tin, hoặc có thắc mắc liên quan đến chứng khoán ? Hãy chia sẻ tại đây.