Tạo nên các thông điệp quảng cáo ấn tượng thông qua đoạn video, clip ngắn, khiến cộng đồng thích thú chia sẻ và lan tỏa trên mạng xã hội (còn gọi là Viral marketing) đang là cách thức được nhiều cá nhân, doanh nghiệp hướng đến.
Là chuyên gia về Viral marketing và cũng là người đứng sau các chiến dịch truyền thông lớn gần đây, anh Trần Chí Hiếu (Hiếu Orion) có những chia sẻ về truyền thông mạng xã hội.
Hiếu Oriron - chuyên gia trong lĩnh vực truyền thông mạng xã hội. |
- Theo anh, tại sao gần đây, nhiều doanh nghiệp Việt Nam lại chuyển dịch truyền thông sang môi trường mạng xã hội, thông qua việc thực hiện viral video, thuê KOLs?
- Theo báo cáo từ Google (2016) về người dùng online, Việt Nam đang là đất nước tăng trưởng người dùng mạng xã hội thuộc top đầu thế giới. Với 3 thói quen chính là tham gia mạng xã hội, tìm kiếm thông tin và xem video. Như vậy, việc các doanh nghiệp bắt đầu sử dụng video để làm phương tiện truyền thông trên mạng xã hội là đúng theo xu hướng tất yếu.
Nếu đăng trên mạng xã hội, một viral video tốt có thể đem lại hàng chục triệu lượt xem và lưu lại trên đó vĩnh viễn nên có thể kéo dài hiệu quả. Ngoài ra, một điểm vô cùng quan trọng của việc xuất bản nội dung trên môi trường mạng xã hội là sự tương tác. Các doanh nghiệp hiện nay không chỉ muốn độc giả nhớ đến thương hiệu của họ mà còn phải cảm thấy thích thú và chia sẻ với bạn bè. Mỗi người sẽ có trải nghiệm khác nhau và các doanh nghiệp sẽ hưởng lợi.
- Sự khác biệt giữa TVC và viral video là gì?
- Hiện nay, nhiều doanh nghiệp và cả các đơn vị truyền thông đang nhầm lẫn giữa TVC và viral video. Rõ ràng hiệu quả cuối cùng của một video đều là nhiều lượt xem (view).
Viral video có ba điểm khác chính với TVC. Thứ nhất, Viral video có được tương tác hai chiều. Thứ hai, nó khiến người lan truyền và cả người tiếp nhận thích thú, sẵn sàng lan toả tiếp. Thứ ba, viral video tập trung vào nội tại để tạo ra động lực lan truyền.
- Theo anh, video liệu có thể trở thành xu hướng nội dung chủ đạo trong tương lai?
- Không phải theo tôi mà theo tất cả chuyên gia khác như Mark Zuckerberg ("cha đẻ" Facebook - PV) cũng nhận định trong tương lai gần, 2/3 nội dung trên Facebook sẽ là video.
Facebook khác với các nền tảng chia sẻ nội dung như tivi, website... ở điểm là nó có một hệ thống tối ưu hiệu quả cho 2 mục tiêu: tương tác và lan toả (viral content) với nội dung. Một nội dung có được yếu tố nội tại đủ hay, đủ hấp dẫn thì sẽ trở thành một con "virus" lan toả theo cấp số nhân.
- Điều này đồng nghĩa là một sản phẩm truyền thông sẽ tương tự như một con virus?
- Đúng vậy. Khái niệm viral marketing đã được chứng minh là một công cụ tiếp thị truyền thông hiệu quả trong thế giới mạng xã hội hiện nay. Khi bạn biến nội dung truyền thông của mình thành một con "virus" thì lúc đó bạn sẽ khiến tất cả người xem trở thành vật truyền dẫn một cách miễn phí.
Theo chuyên gia Hiếu Oriron, viral marketing không phải dễ dàng học được. |
- Vậy chúng ta nên từ bỏ truyền thông video chính thống để làm truyền thông mạng xã hội?
- Không. Truyền thông chính thống (TVC) sẽ vẫn hiệu quả nhưng chỉ với từng mục tiêu. Ví dụ bạn đang chỉ muốn tác động tới công chúng bằng một thông điệp như sản phẩm của chúng tôi ra mắt ngày này, với chức năng này.
Còn nếu bạn thực sự muốn tạo ra cảm xúc cho sản phẩm để họ thay đổi hành vi, thực sự thấy thú vị và tin tưởng thì bạn nên lựa chọn con đường khác bằng cách tương tác hai chiều mạnh hơn, cách truyền tin gián tiếp hơn.
- Vậy phải làm thế nào để tạo ra được các con "virus"?
- Viral marketing không phải dễ dàng học được. Bạn phải thực sự có 3 thứ. Một là hành vi và ngôn ngữ cộng đồng. Hai là đủ năng lực sản xuất nội dung tạo được sự thú vị. Ba là đủ nhạy cảm để phân phối nội dung đúng nơi, đúng chỗ, đúng lúc. Một câu chuyện cười kể sai chỗ cũng thành vô duyên.
- Vậy khó khăn lớn nhất của anh khi sản xuất các con "virus" là gì?
- Trong suốt 15 năm qua, với hàng nghìn con "virus" tôi thử nghiệm mà phần lớn trong đó là hỏng, tôi đã tìm ra được các công thức cơ bản. Tôi đã chứng minh hiệu quả của nó bằng nhiều sản phẩm thực sự chứ không phải chỉ trên lý thuyết.
Đó là lý do các sản phẩm video Viral Marketing chúng tôi đã làm cho các doanh nghiệp đều có lượng chia sẻ lên đến hàng trăm nghìn share. Bằng cách này hay cách khác, các sản phẩm này đều ghi nhớ và ám ảnh tâm trí người xem.
Khó khăn nhất của tôi lúc này không phải là việc làm ra "virus" mà là làm sao thuyết phục các doanh nghiệp thay đổi tư duy. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại đều đang mang quá nặng tư duy bán hàng, nghĩa là mọi sản phẩm đều "quy ra thóc": bỏ bao tiền, thu luôn được bao nhiêu hợp đồng.
Viral video sẽ không phải là một đoạn video để bán hàng trực tiếp, không nên đưa toàn bộ các thông điệp khuyến mãi hay dịch vụ vào. Viral video là một con "virus" để lan toả ra cộng đồng, nó là một chất dẫn. Từ con "virus" này, chúng ta mới nhồi thêm các thông điệp truyền thông vào bằng nhiều hình thức. Đó là nội dung mô tả của video, những comment seeding bên dưới sẽ dùng viral video này để bán hàng như một thứ thú vị tạo ấn tượng ban đầu.
Thu Ngân