- Trong vòng 3 tháng qua, Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất 4 lần, xuống 9% một năm kể từ 11/6. Ông đánh giá như thế nào về tác động của điều chỉnh này tới thị trường tiền tệ?
Ông Lê Anh Tuấn cho rằng lãi suất sẽ tiếp tục hạ. Ảnh: DC |
- Lãi suất liên ngân hàng đã ở mức rất thấp trong 3 tuần vừa qua, trong đó lãi suất qua đêm ở mức 1-1,5%, một tuần là 2-2,5% và một tháng là 4-4,5%. Lãi suất liên ngân hàng đã thấp như vậy thì theo tôi nếu có giảm thêm 2% có lẽ cũng không khiến thị trường bị sốc.
Tỷ giá đôla Mỹ so với đồng Việt Nam những ngày qua chịu tác động khá nhiều bởi việc các ngân hàng thương mại hạn chế bán ra USD, do chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền không còn hấp dẫn. Tuy nhiên, theo tôi, các ngân hàng cũng không dám nâng lượng USD nắm giữ lên cao. Do đó, việc giảm lãi suất huy động VND cũng sẽ không có tác động mạnh lên tỷ giá trong thời gian tới.
- Vậy ông nhận định thế nào về tác động của quyết định này lên lạm phát?
- Trong quý I/2012, Ngân hàng Nhà nước đã đúng khi không giảm lãi suất nhanh. Lạm phát khi đó còn rất cao, 14,2%. Tuy nhiên, tới tháng 5, có thể thấy rằng lạm phát đã về 8,4% và kỳ vọng tháng 6 lạm phát về mức gần 7%. Như vậy, lạm phát trong nước đang trên chiều giảm rất mạnh. Thêm vào đó, một số nước khác còn đang lo lắng về giảm phát. Do đó, việc giảm mạnh lãi suất vừa qua của Ngân hàng Nhà nước, theo tôi, là hợp lý.
Việt Nam là một trong những nước có lãi suất thực cao nhất trên thế giới hiện nay. Lạm phát kỳ vọng vào khoảng 7%, trong khi đó trước kia lãi suất tiền gửi là 11%. Lãi suất thực tế của Việt Nam hiện là 4%. Trong khi các nước khác lãi suất thực phần lớn là âm hoặc gần bằng không.
Một điều quan trọng là lạm phát bị ảnh hưởng bởi lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế chứ không hoàn toàn vào giá của tiền (lãi suất). Có rất nhiều giai đoạn, mối liên quan giữa lãi suất và lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế bị gián đoạn. Việt Nam chúng ta có lẽ đang ở trong giai đoạn này.
Việc kích cầu và giảm lãi suất mạnh là đúng, nhưng cần phải chú ý dòng tiền kích cầu đi vào dự án nào, có thực sự giúp doanh nghiệp được không, và có thực sự tăng sức mua của người dân hay không. Nếu kích cầu mà phần lớn dòng tiến tiếp tục vào những dự án kém hiệu quả như năm 2009, thì khả năng lạm phát quay lại trong trung hạn là có.
- Vậy trong thời gian tới, ông dự đoán việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước sẽ như thế nào?
- Theo tôi, để cân bằng lãi suất thực của nền kinh tế Việt Nam, lãi suất huy động phải thấp hơn mức 9% hiện tại khá nhiều. Tuy nhiên, do hệ thống và cơ cấu huy động - cho vay của ngành ngân hàng đã làm cho lãi suất xuống rất chậm. Tôi không loại trừ khả năng Việt Nam sẽ còn phải giảm thêm khoảng 200-300 điểm (2-3%) các lãi suất điều hành như OMO, tái cấp vốn… từ đây đến cuối năm.
- Lãi suất giảm, dòng tiền sẽ chảy vào kênh đầu tư nào, thưa ông ?
- Bình quân lãi suất tiền gửi của Việt Nam từ năm 2000-2007 là 6,2%, cũng trong giai đoạn này lạm phát bình quân vào tầm 4,6%/năm. Trong đó có giai đoạn 2000-2001, lãi suất tiền gửi ở mức 3-5% mỗi năm. Có nhiều giai đoạn Việt Nam chúng ta có lãi suất thực âm hay rất thấp nhưng tiền gửi vẫn tăng. Trong giai đoạn tới, các tài sản khác sẽ có độ biến động về giá mạnh do diễn biến của thế giới. Do đó, có lẽ các tài sản khác vẫn chưa đến giai đoạn hút nguồn vốn mạnh từ tiết kiệm.
- Vậy bên cạnh việc hạ lãi suất, theo ông cần có giải pháp gì để kích thích kinh tế?
- Theo tôi, việc hạ lãi suất chỉ mang tính kích cung là chính, hiệu ứng kích cầu của lãi suất chỉ là gián tiếp. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam đang gặp cả vấn đề về cung và cầu. Chính sách kích cầu từ tài khóa là hợp lý, tuy nhiên hiệu quả của chính sách kích cầu từ tài khóa lại vấp phải trăn trở rất lớn từ hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Do đó, theo tôi, Quốc hội nên mạnh dạn cho thâm hụt ngân sách cao hơn, tuy nhiên quy trình giám sát các gói kích cầu cần phải được chú ý thật kỹ. Kích đúng nơi và kích sao cho tạo hiệu ứng lan tỏa cao nhất.
(Theo VnEconomy)