Tăng trưởng tín dụng của cả hệ thống ngân hàng đến cuối tháng 6 đạt khoảng 2,6%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ 2013 (4,7%) và thấp xa mục tiêu điều hành cả năm (12-14%).
Lãnh đạo một ngân hàng thương mại cổ phần có trụ sở tại TP HCM tâm sự, 6 tháng đầu năm, tín dụng tại nhà băng ông chỉ tăng được 0,5%. Hiện nay ông cho biết tình hình vẫn chưa khả quan gì hơn.
"Chúng tôi đã tìm mọi cách thu hút khách vay tiền như giảm lãi vay, tăng cường khá nhiều đội ngũ bán hàng để phủ khắp nơi, tiếp cận trực tiếp khách hàng để chào mời nhưng vẫn không cải thiện gì nhiều", ông nói.
Nếu có gói hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp vay để đổi mới máy móc, thiết bị sẽ giúp Việt Nam tránh lệ thuộc vào một thị trường như Trung Quốc, trong khi ngân hàng lại tăng được dư nợ, theo Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân. |
Lý giải thực trạng này, lãnh đạo Ngân hàng NamA Bank cho rằng, do khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp quá thấp. "Có những doanh nghiệp đủ điều kiện thì họ không vay vì tồn kho cao, tiêu thụ hàng hóa kém, nên không biết vay để mở rộng sản xuất thế nào trong điều kiện đầu ra đang khó khăn. Trong khi những đơn vị cần vốn thì tình hình tài chính kém, không đáp ứng điều kiện vay ngân hàng", ông chia sẻ.
Tại địa bàn TP HCM, hiện nay bên cạnh một số nhà băng có thể mạnh về cho vay tiêu dùng nên tín dụng có phần đỡ hơn, còn lại nhiều ngân hàng đang khá chật vật. Chính vì vậy, giải pháp được chọn trong lúc này là một số nhà băng đăng ký vào chương trình "liên kết giữa ngân hàng với doanh nghiệp" để mong giải ngân được phần nào nguồn vốn.
Tính đến hết tháng 5/2014, ngành ngân hàng trên địa bàn TP HCM đã thực hiện được 14 lễ ký kết với tổng số vốn đạt hơn 10.000 tỷ đồng hỗ trợ cho vay đối với hơn 400 doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh và hợp tác xã.
Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam rất cần tiếp cận được nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất ổn định để đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhằm nâng cao năng lực sản xuất, tránh tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào một nước, chẳng hạn như Trung Quốc.
Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp như vậy lại không dám vay ngân hàng. Bởi lãi suất cho vay trung dài hạn hiện vẫn dao động mức 12% là khá cao so với sức chịu đựng của họ, chưa kể là áp theo biểu lãi suất thả nổi theo thị trường. Do đó, doanh nghiệp sợ phải chịu rủi ro biến động lớn sau này.
Từ thực tế trên, Tiến sĩ Ngân cho rằng cần phải có một gói hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp có nhu cầu chuyển đổi máy móc thiết bị, với thời gian vay lâu dài, tầm 5-10 năm.
Cách thức làm có thể như gói cho vay nhà ở 30.000 tỷ đồng. Nguồn vốn sẽ được Ngân hàng Nhà nước cho các ngân hàng thương mại vay, rồi đem cho các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị vay lại. Khi đó, ngân hàng thì tăng được dư nợ mà bản thân doanh nghiệp có thể tái cơ cấu để tạo tiền đề cho sự phục hồi khả năng sản xuất.
"Vấn đề còn lại là cơ chế giám sát và triển khai cần chặt chẽ để nguồn tiền đi đúng mục đích và phát huy được tác dụng", ông Ngân nói.
Ngoài ra, Tiến sĩ Ngân cũng phân tích, hiện nay đối tượng doanh nghiệp cần vay vốn ngân hàng nhiều nhất là những doanh nghiệp tư nhân (hơn 96% thuộc loại nhỏ và vừa), hầu hết điều kiện để được vay ngân hàng gần như không thoả mãn. Bản thân ngân hàng cũng không thể hạ chuẩn để cho vay vì sẽ rất rủi ro.
Để gỡ vướng mắc trên, giúp doanh nghiệp có vốn hoạt động, ngân hàng thì tăng được tín dụng, ông Ngân cho rằng, cần phải dùng ngân sách (nguồn tiền từ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước) để tăng nguồn vốn cho các quỹ bảo lãnh tín dụng ở các tỉnh, thành phố. Từ đó, các quỹ này mới có đủ khả năng đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa được vay vốn của ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh.
"Làm được điều này, không chỉ giúp tăng trưởng tín dụng mà còn tăng được nguồn thu từ thuế (doanh nghiệp hồi sinh và sản xuất kinh doanh có lợi nhuận) trong tương lai", ông nói.
Tuy nhiên, Tiến sĩ Nguyễn Văn Thuận, Trưởng khoa Tài chính-Ngân hàng, Đại học Mở TP HCM cho rằng lãi suất hiện nay không phải là vấn đề lớn trong việc giải quyết tình trạng bế tắc tín dụng, mà quan trọng nhất vẫn là bài toán kích cầu. "Do đó, dù có gói hỗ trợ lãi suất, doanh nghiệp vay được vốn để nâng cao năng lực sản xuất mà không có đầu ra cho sản phẩm thì cũng sẽ chết", ông nói.
Để tăng tổng cầu, trước đây thường dựa vào đầu tư công nhưng giờ kênh này đang bị siết chặt. Do đó, giải pháp hiện nay phải làm sao đẩy nhanh tiến trình giải ngân gói 30.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội để tạo nền tảng cho việc kích cầu.
Lệ Chi