Việc Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) vừa chứng nhận sản phẩm mật ong U Minh Thượng (tỉnh Kiên Giang) mang nhãn hiệu tập thể, tạo điều kiện cho những nông dân làm nghề gác kèo ong nơi đây sớm khôi phục thương hiệu “Tập đoàn Phong Ngạn gác kèo ong” đã một thời vang danh.
Từ trên “lô-cốt” của Ban quản lý rừng U Minh Thượng (thuộc Tiểu khu 1 và 2) nhìn ra, cả bốn bề đều ngút ngàn màu xanh chen lẫn màu trắng bông tràm. Những cơn gió mát nhẹ trong những ngày đầu đầu mùa mưa mang theo một mùi đặc trưng quanh năm của vùng đất này, đó là mùi hương tràm thoang thoảng.
Từ trên cao, theo hướng tay chỉ của mình, “vua” gác kèo ong Nguyễn Minh Bảo ở ấp 11A, xã Đông Hưng B, huyện An Minh (Kiên Giang) đưa chúng tôi trở về quá khứ một thời vang danh của Tập đoàn Phong Ngạn vốn gắn liền với địa danh U Minh Thượng này.
Ông Bảo khoe, nhờ dùng mật ong thường xuyên, nên tuy đã ngoài tuổi 70, nhưng ông vẫn còn rắn chắc và hàng ngày lội vào rừng hàng chục cây số mà vẫn khỏe như thời trai trẻ. Ông Bảo vào Tập đoàn Phong Ngạn làm gác kèo nuôi ong từ hơn nửa thế kỷ trước.
Theo ông Bảo giải thích, từ “Phong Ngạn” là do nông dân trong tập đoàn vùng này đặt. “Ngạn là cây kèo gác ngang để ong đeo bám làm tổ, còn Phong là sự phong phú, tập hợp đa dạng của những người làm nghề gác kèo ong”, ông Bảo giải thích.
Ông Bảo cho biết, từ những năm 40 của thế kỷ trước, do việc tự do khai thác tổ ong (người dân địa phương gọi là “đi ăn ong mật”) không thống nhất, tranh giành vị trí gác kèo, nhất là khi thu hoạch, làm động kèo ong của nhau, khiến ong bỏ đi và thất thu mật. Vì thế, chính quyền thời đó đã tập hợp nông dân gác kèo ong lại với nhau để thành lập Tập đoàn Phong Ngạn. Theo đó, tổ chức và thống nhất các hoạt động, như quy định thời điểm đi “ăn ong” (thường khoảng 15 ngày đi khai thác một lần), nếu gác kèo chung chảng thì phải khác hướng, đánh số kèo của từng người để tránh trộm mật ong của nhau… Đặc biệt, Tập đoàn Phong Ngạn còn được chính quyền giao trách nhiệm bảo vệ rừng và quản lý chất lượng mật ong.
Ông Bảo cho biết thêm, khi có Tập đoàn Phong Ngạn, nếu nhà nào có mật ong trong nhà và đem bán vào mùa chưa thu hoạch, thì dễ bị phát hiện và bị xử lý nghiêm khắc. Đặc biệt, Tập đoàn cấm pha chế, mà phải để mật ong nguyên chất khi bán ra thị trường; nếu phát hiện vi phạm sẽ bị tịch thu cây kèo ong, đuổi ra khỏi rừng, đuổi khỏi địa phương. Do vậy, thương hiệu mật ong rừng U Minh ngày ấy đã lan xa ra tận nước ngoài.
Xuất thân trong gia đình nông dân có 7 anh em, lúc còn nhỏ, hầu hết anh em ông Bảo vào rừng U Minh Thượng gác kèo ong để kiếm sống. Đến nay, đã ngoài 70 tuổi, nhưng ngày nào, ông cũng lặn lội vào rừng chăm sóc ong mật và được nhiều nông dân trẻ theo học nghề, thậm chí còn phong ông là “tổ nghiệp”.
Theo ông Bảo, cái khó là kinh nghiệm chọn chảng (vị trí) để gác kèo nuôi ong. Vì chảng là một khoảng trống không gian chừng 30 m2, có địa hình cây cối hợp lý để gác cây kèo cho ong làm tổ, như phải đúng hướng gió, có bóng râm hợp lý (không quá tối, không quá sáng), có cây xanh che phủ tổ ong vừa phải, đảm bảo độ cao và dốc nghiêng của cây kèo… Đặc biệt, cây kèo phải có độ bóng và chắc chắn.
“Cách đây gần 10 năm, ong tại rừng U Minh Thượng nhiều vô kể. Bất kể mùa nào, nếu vào trong rừng thì cả ngày lẫn đêm đều nghe tiếng rào rào của ong ăn bông (hút mật). Nhưng từ sau năm 2002, do bị cháy rừng, mất trên 1/3 diện tích rừng tràm nguyên sinh, số lượng bông tràm giảm đáng kể và số lượng ong cũng giảm theo. Vì khai thác ong không được tổ chức như Tập đoàn Phong Ngạn ngày xưa, nên sau sự cố cháy rừng, Nhà nước đã cấm tuyệt đối việc vào gác kèo ong cũng như các công việc khác”, ông Bảo cho biết.
Theo ông Tiết Trường Hận, Hạt trưởng hạt kiểm lâm liên huyện An Biên - An Minh (Kiên Giang), nhờ chủ trương giao đất, giao rừng cho dân của Chính phủ, đến nay, khu rừng đệm U Minh Thượng (Tiểu khu 1 và 2 thuộc vùng đệm) đã phát triển được 2.720 ha rừng tràm trên 8 năm tuổi. Với 280 hộ dân, mỗi hộ trồng 4 - 5 ha tràm và tự bảo vệ. Mỗi năm, các hộ được phép khai thác 10% rừng tràm, được nuôi cá và gác kèo nuôi ong. Trong đó, mỗi hộ có khoảng 40 cây kèo ong, mỗi tổ ong khai thác 2 - 5 lần và thu hoạch 4 - 5 lít mật. Hàng năm, mỗi hộ gia đình có thu nhập 15 - 20 triệu đồng từ mật ong, góp phần cải thiện đời sống của người dân, đồng thời bảo vệ và phát triển rừng.
Tuy nhiên, để cải thiện đời sống nông dân và phát triển rừng theo hướng bền vững, theo ông Bảo, rất cần phải khôi phục mô hình gác kèo ong của Tập đoàn Phong Ngạn trước đây.
“Hiện vẫn còn không ít người lén lút vào rừng nguyên sinh (rừng lõi) để gác kèo ong, mà lực lượng bảo vệ rừng rất khó kiểm soát. Thêm vào đó, vấn nạn mật ong giả và pha trộn kém chất lượng vẫn được buôn bán tự do ở địa phương, trong khi không có ai quản lý và kiểm tra. Trong khi đó, nhiều đối tác nước ngoài muốn đặt mua mật ong nguyên chất của rừng U Minh Thượng với giá cao, nhưng không có ai kiểm tra và bảo chứng”, ông Bảo bức xúc.
Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) vừa chứng nhận sản phẩm mật ong U Minh Thượng mang nhãn hiệu tập thể, khiến ông Bảo “vui như Tết”. Ông Bảo cho biết: “Đây là điều kiện tốt để những người làm nghề thành lập Tập đoàn Phong Ngạn gác kèo ong. Hiện nay, chúng tôi đang phối hợp với chính quyền địa phương xây dựng quy chế, nội quy, cơ sở pháp lý… để sớm ra mắt Tập đoàn, góp phần đưa thương hiệu mật ong U Minh Thượng đến với bạn bè quốc tế…”.
Đây không chỉ là việc làm thiết thực để khôi phục làng nghề truyền thống, xóa đói giảm nghèo, mà còn góp phần bảo vệ vườn quốc gia và quảng bá du lịch rừng U Minh Thượng đến với bạn bè quốc tế một cách thiết thực nhất.
(Theo Báo đầu tư)