Người dân chờ đợi những đợt giảm cước của VNPT |
Năm 2001, Tổng cục Bưu điện nay là Bộ Bưu chính Viễn thông đã điều chỉnh 6 loại cước. Trong đó, cước điện thoại quốc tế IDD (PSTN) giảm khoảng 15%; cước thuê kênh quốc tế giảm khoảng 20%, cước thuê kênh trong nước giảm 15-30%; cước thuê bao điện thoại di động giảm 25% và cước air-time giảm khoảng 5%. Riêng cước Internet có mức giảm lớn nhất, 70% gồm cước thuê cổng IXP, cước truy cập gián tiếp qua mạng PSTN, nhất là đối với dịch vụ Pre-paid.
Năm 2002 tổng cục lại tiến hành 2 đợt điều chỉnh cước. Đáng chú ý là đợt 1, vào ngày 1/2, giảm 25% cước thuê kênh viễn thông liên tỉnh áp dụng cho các ISP và IXP, riêng cước thuê kênh viễn thông quốc tế áp dụng cho các IXP giảm khoảng 65-70%... Năm 2003 với các đợt điều chỉnh vào tháng 3, tháng 4 và tháng 10, các mức cước được điều chỉnh với mức giảm tối đa là 35%. Tháng 5 vừa qua, bộ cũng tiến hành điều chỉnh 12 loại cước viễn thông song mức giảm không đáng kể, chỉ khoảng 12%.
Các chuyên gia cho rằng, nếu xét về mật độ điện thoại cố định và di động, vị trí của Việt Nam trong khu vực còn khá khiêm tốn. Ngay cả khi thực hiện được mục tiêu 10 máy điện thoại cố định/100 dân thì Việt Nam vẫn chưa vượt lên trên Thái Lan. Nếu so sánh số người sử dụng Internet thì vị trí của Việt Nam lại càng thấp. Và sau 10 lần điều chỉnh cước kể từ năm 2001 đến nay, cước viễn thông của Việt Nam vẫn còn cao so với một số nước trong khu vực, riêng cước quốc tế được xếp vào loại đắt thứ ba trên thế giới, chỉ sau Cuba và Guyana.
Theo lý giải của Bộ Bưu chính Viễn thông, cước điện thoại của Việt Nam có thể cao hơn một số nước nhưng so với bình quân các nước trong khu vực thì đã ở mức tương đương hoặc thấp hơn. Chẳng hạn, cước điện thoại quốc tế (IDD) của Việt Nam áp dụng kể từ 1/5 thấp hơn mức bình quân khu vực khoảng 40%, cước điện thoại di động rẻ bằng một nửa mức bình quân. Song trên thực tế, các mức cước của Việt Nam vẫn cao hơn một số nước như Philippines, Indonesia, Thái Lan, Trung Quốc (kể cả Hong Kong) và Malaysia
Tuy nhiên, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) lại cho rằng, trong khi giá thành dịch vụ viễn thông thế giới có xu hướng giảm nhanh qua các năm thì việc giá cước tại Việt Nam vẫn cao là điều rất khó chấp nhận. Chẳng hạn, chỉ tính trong 3 năm (2001-2003) tỷ lệ giảm giá thành đối với điện thoại nội hạt là 11,18%, điện thoại đường dài liên tỉnh PSTN giảm khoảng 10,49%, điện thoại quốc tế PSTN giảm 20,11%, điện thoại di động quốc tế giảm 19,71% và điện thoại di động trong nước giảm khoảng 8,65%. Như vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng ngành viễn thông cần có phương án điều chỉnh một cách hợp lý theo xu hướng của ngành viễn thông thế giới.
Cục quản lý giá cho rằng, cước một số dịch vụ bưu chính trong nước được quy định hiện nay chưa phản ánh đúng giá thành sản phẩm và dịch vụ. Một số cước dịch vụ cao hơn nhiều so với giá thành sản phẩm và cao hơn so với các nước khu vực. Tuy nhiên, theo cục, có một thực tế là một số mức cước dịch vụ cơ bản như tem thư, điện báo, điện thoại nội hạt... lại được quy định ở mức thấp. Do vậy, ngành viễn thông buộc phải quy định một số dịch vụ viễn thông cao hơn so với giá thành nhằm bù chéo cho các dịch vụ không lãi hoặc lãi ít. "Việc bù chéo này thời gian đầu là có thể chấp nhận nhưng trong cơ chế hiện nay thì việc bao cấp qua giá cước là không phù hợp cần phải xóa bỏ", đại diện cục nhận định.
Bảo vệ ý kiến của mình, nhiều chuyên gia viễn thông cho rằng, thời điểm mà Việt Nam tiến hành các đợt điều chỉnh cước thì nhiều nước khác cũng giảm, thậm chí họ còn giảm mạnh hơn. Do vậy, giá cước viễn thông Việt Nam vẫn xếp vào hàng đắt nhất trong khu vực và cao gấp hơn năm lần so với Singapore.
Nhưng các chuyên gia kinh tế lại cho rằng, nguyên nhân chính lại nằm ở cơ chế độc quyền trong ngành viễn thông. "Rõ ràng, dù đã có nỗ lực nhất định, song cơ chế độc quyền chiếm giữ dịch vụ thiết yếu này đang bộc lộ ngày càng nhiều nhược điểm", một chuyên gia nhận xét. Thực tế cho thấy, Việt Nam hiện chỉ có hai công ty nhà nước thâu tóm thị trường bưu chính viễn thông trong khi ở Thái Lan có năm công ty lớn và đều thuộc tư nhân. Do vậy, cước sử dụng điện thoại di động của Thái Lan cũng rẻ hơn nhiều (3 baht/phút, tương đương 1.000 đồng/phút). Và, số người sử dụng tại Thái Lan cũng cao hơn nhiều so với Việt Nam (với mạng điện thoại di động, hiện nay, Việt Nam mới chỉ có hơn 3 triệu/80 triệu người sử dụng điện thoại di động; ở Thái Lan con số đó là 23/40 triệu người).
Bảng so sánh giá cước của VN và một số nước trong khu vực
Các nước |
Cước điện thoại quốc tế qua từng giai đoạn (USD/phút)
Từ1/4/2003 |
Từ 1/5/2004 |
Cước di động qua từng giai đoạn (VNĐ/phút)
Từ1/4/2003-1/5/2004 |
Cước di động VN so với khu vực Cao (+), thấp (-) Từ 4/2004 |
Từ 1/5/2004 |
Việt Nam | 0,90 | 0,65 | 3.000-2.727 | ||
Campuchia | 1,42 | 1,42 | 4.530 | - 34% | - 40% |
Indonesia | 0,71 | 0,71 | |||
Laos | 1,93 | 1,35 | |||
Bruney | 1,18 | 1,18 | 5.160 | - 42% | - 47% |
Malaysia | 0,68 | 0,68 | 2.503 | +20% | + 9% |
Myanma | 2,38 | 2,38 | |||
Philippines | 0,36 | 0,36 | 2.476 | + 21% | + 10% |
Thái Lan | 0,64 | 0,64 | 1.813 | + 65% | + 50% |
Singapore | 0,76 | 0,76 | 4.850 | - 38% | - 44% |
Trung Quốc | 0,97 | 0,97 | 2.300 | + 30% | + 19% |
Nhật Bản | 1,89 | 1,64 | 11.857 | - 75% | - 77% |
Hàn Quốc | 0,85 | 0,81 | 4.703 | - 36% | - 42% |
Mức trung bình ASEAN+3 | 1,12 | 1,05 | 5.684 | - 47% | -52% |
Hồng Anh