Chỉ chiếm hơn 9% diện tích và 20% dân số nhưng 8 tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, bao gồm: TP HCM, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang lại đang đóng góp đến 60% ngân sách hàng năm. Riêng 4 địa phương là TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu đã góp đến 50% GDP cả nước. Với đóng góp này, từ lâu, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã được xác định là đầu tàu phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, tại Hội thảo về cơ chế chính sách phát triển kinh tế của vùng diễn ra ngày 23/12, các tỉnh – thành thành viên thẳng thắn cho rằng, trọng trách thì lớn nhưng sự thật mức độ liên kết của vùng này còn kém do thiếu cơ chế đặc thù để quản lý. Đó là chưa kể theo nhận định của đại diện tỉnh Đồng Nai thì các thành viên trong vùng đang phải điều tiết ngân sách về Trung ương rất cao khiến cơ sở hạ tầng kỹ thuật của vùng phát triển không đáp ứng được nhu cầu và thậm chí là chậm hơn các vùng khác.
Ông Nguyễn Thành Phong – Chủ tịch UBND TP HCM, hiện đang là Chủ tịch Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cho biết, Hội đồng vùng lập ra đến giờ cũng không có bất kỳ quyền hạn nào để điều phối hoạt động thành viên. “Hội đồng vùng hiện giờ chỉ có việc là lắng nghe ý kiến và kiến nghị của các tỉnh, sau đó tập hợp lại để trình Chính phủ. Cho nên, việc phân công giữa địa phương này và địa phương khác thì Chủ tịch Hội đồng vùng không có quyền. Trong khi đó, sự phân công lao động theo ngành và theo lãnh thổ trong vùng là động lực cơ bản để thúc đẩy hợp tác”, ông Phong nhận định.
Hàng loạt đại diện địa phương thành viên cũng đồng tình về việc đã quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm thì phải có cơ chế hoạt động và liên kết cụ thể chứ không thể qua loa, hình thức.
“Vùng chưa xây dựng được cơ chế hoạt động thật sự hiệu quả trong thực tiễn về liên kết vùng, chưa có cơ chế, chính sách riêng, đặc thù”, đại diện tỉnh Tiền Giang xác nhận. Tỉnh Bình Phước đề xuất sớm tổ chức nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách, giải pháp liên kết, phối hợp phát triển trên cơ sở thực tế phát triển của toàn vùng và của từng địa phương.
“Cần phải xây dựng chương trình liên kết vùng thật cụ thể, trong đó đề xuất TP HCM làm 'Thủ lĩnh vùng'. Kiến nghị Trung ương ban hành, thực hiện hiệu quả các cơ chế chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy nhanh cho vùng trong việc phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt chú trọng đến giao thông đô thị, y tế, giáo dục.”, ông Trần Văn Cần – Chủ tịch tỉnh Long An góp ý.
Bí thư Thành ủy TP HCM Đinh La Thăng đề xuất xây dựng cơ chế đặc thù cho Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. |
Ông Đinh La Thăng – Bí thư Thành ủy TP HCM cũng đồng tình với nhu cầu cấp thiết phải có một cơ chế riêng để các thành viên vùng có thể liên kết với nhau. “Nếu vẫn duy trì cơ chế hiện nay thì không thể có liên kết vùng. Người ta không thể hy sinh lợi ích của địa phương mình vì lợi ích của vùng được. Tôi hiểu lãnh đạo các địa phương hiện đang phải đứng trước áp lực rất lớn về đảm bảo an sinh xã hội, tăng trưởng GDP và nộp ngân sách hàng năm về Trung ương. Do đó, phải xây dựng được một cơ chế hiệu quả, có thể đảm bảo lợi ích phát triển kinh tế các địa phương song song với lợi ích cả vùng.”, Bí thư Thăng chia sẻ.
Đứng ở góc độ nhà khoa học, chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên cho rằng, chỉ khi nào chuyển mô hình quản lý từng tỉnh thành sang vùng thì chuyện phát triển vùng mới đi vào thực chất. “Việt Nam đang có 22 tỉnh dưới một triệu dân, hơn 30 tỉnh từ một đến 2 triệu dân. Như vậy, có hơn 50 tỉnh thành dưới 2 triệu dân, quá bé để có một tổ chức kinh tế. Chúng ta phải tạo cho vùng cơ sở về quyền lực, nguồn lực để nó có thể hoạt động được. Chứ tiếp cận theo kiểu quyền lực tỉnh, các anh lâu lâu họp bàn với nhau là không làm được”, Tiến sỹ Thiên phân tích.
Tuy nhiên, ở góc độ quản lý, ông Ngô Đông Hải - Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương cho rằng, ý tưởng này không dễ. Hiện có 3 vấn đề mấu chốt gây khó khăn cho liên kết vùng. Thứ nhất, luật pháp về tổ chức chính quyền không có phép thành lập một cơ chế quyền lực trung gian nằm trên các tỉnh thành và dưới Trung ương. Thứ hai, mỗi tỉnh hiện phát triển như một nền kinh tế độc lập, lãnh đạo các tỉnh phải chịu áp lực hàng năm về phát triển kinh tế. Do đó, không ai có thể từ bỏ quyền lợi của địa phương mình vì quyền lợi chung. Thứ ba, độ chín muồi về quy mô, trình độ phát triển kinh tế xã hội của các địa phương chưa đến mức buộc các địa phương phải liên kết với nhau để phát triển tiếp.
“Trong điều kiện hiện nay thì không thể có cấp quyền lực trung gian nào nên liên kết vùng phải dựa trên cơ sở đồng thuận và tự nguyện. Tất nhiên, để có hiệu quả thì phải có chế tài ràng buộc dựa trên cơ chế tuyên bố và cam kết.”, ông Hải đề xuất.
Trước mắt, theo Bí thư TP HCM Đinh La Thăng, những biện pháp khả dĩ có thể làm ngay là Hội đồng vùng cần nghiên cứu xây dựng các cơ chế phù hợp với luật hiện hành. Nếu vấn đề nào có tính đột phá thì đề xuất lên Trung ương. Trong đó, chủ yếu là làm sao để Hội đồng vùng có quyền tác động đến các thành viên. “Hội đồng vùng cần đề xuất được quy chế liên kết để ban hành, giúp cho Chủ tịch Hội đồng vùng có điều hành thì các tỉnh phải làm theo”, ông Thăng đề xuất và nhận được sự đồng tình của tỉnh Đồng Nai với kiến nghị phải có mô hình tổ chức với người đứng đầu đủ thẩm quyền quyết định các lĩnh vực của vùng chứ không phải là nơi đóng vai trò tư vấn, khuyến nghị như hiện nay.
Ngoài ra, theo một số nhà khoa học thì "có thực mới vực được đạo", tức để Vùng phát triển thì ngoài cơ chế quản lý, phân quyền đặc thù thì cũng cần quan tâm đến vấn đề tài chính. Theo PGS. TS Đinh Phi Hổ - Giảng viên Đại học Kinh tế TP HCM, Vùng cần phải có tiền chung, có tài sản chung. Đây là giải pháp dài hạn. Còn theo GS. TS Mai Hồng Quỳ - Hiệu trưởng Đại học Luật TP HCM thì TP HCM, với vai trò dẫn dắt chính cho sự phát triển của Vùng phải có thêm các cơ chế ủy quyền và trao quyền. Đồng thời, để ổn định nguồn lực tài chính thì cần ấn định tỷ lệ điều tiết ngân sách ổn định ít nhất trong chu kỳ 5 năm.
Viễn Thông