Ông Charles A.F. Barclay. Ảnh: TT |
- Ông có biết lượng vàng người Pháp đã lấy được từ khu mỏ Núi Kẽm và trữ lượng còn lại ở đây?
- Công tác thăm dò, nghiên cứu khu mỏ Núi Kẽm vẫn đang được chúng tôi tiếp tục nên chưa thể có con số về trữ lượng của khu mỏ này, nhưng rõ ràng là trữ lượng còn lại nhiều hơn so với số lượng mà người Pháp đã khai thác. Hàm lượng vàng ở khu mỏ Núi Kẽm cao hơn ở khu Hố Gần. Hàm lượng vàng ở Hố Gần khoảng 3,85g/tấn quặng, thấp, tuy nhiên nhờ vàng hiện đang có giá cao, công nghệ khai thác hiện đại cho phép thu hồi được vàng ở hàm lượng thấp, việc khai thác lộ thiên thuận lợi hơn là ở hầm lò nên có thể khai thác được.
Thời kỳ Pháp khai thác Bồng Miêu giá vàng thế giới thấp, công nghệ khai thác còn hạn chế nên phải tìm khu mỏ có hàm lượng vàng cao hơn ở Hố Gần để khai thác mới có lãi. Hàm lượng vàng ở Núi Kẽm khoảng 10g/tấn quặng, được gọi là cao. Trên thế giới có nhiều mỏ vàng hàm lượng cao hơn ở Hố Gần gấp 20 lần.
- Công ty ông sẽ ở lại đây được bao lâu?
- Tôi không thể nói chắc. Tuy nhiên, người Chăm đã khai thác Bồng Miêu cả nghìn năm, người Pháp gần 50 năm, dù họ khai thác chậm nhưng có thể nói là mỏ vàng Bồng Miêu không nhỏ. Tôi đã từng làm ở 7-8 mỏ trong mấy chục năm. Và tôi có thể nói chúng tôi có thể khai thác Bồng Miêu không dưới 50 năm.
- Ngoài Bồng Miêu, công ty ông còn sắp mở mỏ vàng ở Phước Sơn. Quảng Nam được xem là giàu mỏ vàng?
- Tôi nghĩ không riêng gì ở Quảng Nam, VN còn có thể có nhiều mỏ vàng nữa nhưng vì chưa được đầu tư thăm dò, một công việc đòi hỏi rất nhiều công sức và tốn kém. Chúng tôi mong Nhà nước VN khuyến khích, dành thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thăm dò, không riêng với vàng mà cho các loại khoáng sản nói chung. Trong kinh doanh yếu tố quan trọng là cơ hội. Việc chậm cấp các loại giấy phép cho quá trình thăm dò, khai thác như trước đây đã làm mất cơ hội, gây nản lòng các nhà đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh này.
- Vậy công ty ông đã gặp những khó khăn nào trong việc này?
- Xin hãy hình dung hoạt động kinh doanh mỏ như là một cuộc chơi. Nó có những khó khăn về pháp luật, luật lệ, ở đâu trên thế giới cũng vậy, tôi không muốn nói những khó khăn về phía nhà nước vì người trong cuộc phải biết giao tiếp với cơ quan nhà nước để giải quyết các vướng mắc về pháp luật. Khó khăn hiện nay của chúng tôi nằm ở các vấn đề chuyên gia mỏ, cơ sở hạ tầng, thiết bị máy móc, đào tạo công nhân VN trong bối cảnh kẻ nói tiếng Anh người nói tiếng Việt.
- Ông có thể nói rõ hơn về mỏ vàng Dăksa ở huyện Phước Sơn?
- Khoảng hai năm tới chúng tôi sẽ xây dựng nhà máy khai thác vàng Dăksa, quy mô nhà máy này có thể lớn hơn ở Bồng Miêu. Lượng vàng ở mỏ này được chúng tôi bảo vệ ở mức 7,2 tấn.
- Một số người dân địa phương đang tỏ ra lo lắng về sự rò rỉ chất thải hóa học, chất khí và nước ở nhà máy tuyển vàng vào môi trường sống của cư dân. Ông giải thích thế nào trước những lo lắng này của họ?
- Một trong số hóa chất chúng tôi đang sử dụng là cyanure, khi thải ra đập chứa thải hàm lượng chỉ còn dưới 0,5 phần triệu gam/tấn, dưới mức cho phép, nhỏ hơn cả hàm lượng cyanure trong khói thuốc lá (1.600 phần triệu gam/tấn) và vỏ củ sắn (500 phần triệu gam/tấn). Cả cán bộ, nhân viên, công nhân của chúng tôi tiếp xúc trực tiếp với hóa chất này, nếu có phản ứng bất lợi làm sao chúng tôi hoạt động sản xuất được.
(Theo Tuổi Trẻ)