Nói một cách nôm na, chứng chỉ của Hội đồng Quản trị Rừng Thế giới (FSC) cho sản phẩm gỗ cũng giống như ISO cho các loại hàng hoá khác. Một số hàng hoá được đòi hỏi là sản phẩm của một quy trình không gây tổn hại tới môi trường, trong khi sản phẩm gỗ được đòi hỏi không xuất phát từ những khu rừng bị phá huỷ.
Ông Nguyễn Ngọc Lung, Tổ trưởng Tổ Công tác quốc gia về Chứng chỉ rừng và Chứng chỉ gỗ, được thành lập năm 1998 với sự hỗ trợ của WWF, cho biết, hiện nay, nhu cầu xuất khẩu gỗ của Việt Nam là 1,6 triệu m3/năm. Trong khi đó từ năm 2000, Chính phủ chỉ cho phép khai thác 300.000 m3 gỗ/năm để những rừng cạn kiệt được khôi phục. Doanh nghiệp không có đủ nguyên liệu, do đó họ phải sử dụng gỗ lậu hoặc gỗ nhập.
Một số doanh nghiệp phàn nàn họ bị doanh nghiệp nước ngoài chèn ép vì việc mua bán gỗ có chứng chỉ FSC từ bên ngoài phải thông qua họ. Ông Lung giải thích: "Đương nhiên doanh nghiệp thích gỗ trong nước hơn vì giá rẻ và là nguồn nguyên liệu lâu dài cho họ". Đây chính là lý do để doanh nghiệp có thể tham gia vào quá trình quản lý rừng bền vững vì lợi ích của chính họ và cũng vì lợi ích quốc gia.
Tại Hội thảo về Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ gỗ do WWF và Tổ Công tác Quốc gia tổ chức tuần qua tại Quy Nhơn, gần 40 đại diện doanh nghiệp gỗ và lâm trường đã cùng nhau thảo luận nhằm đưa ra những đề xuất về quản lý rừng bền vững. Người chế biến gỗ cũng sản xuất, đồng thời xuất khẩu, đó là một chuỗi liên hoàn hỗ trợ cho nhau.
Tuy nhiên, hiện nay, mắt xích này bị chia cắt. Bằng chứng là các lâm trường - người sản xuất - và doanh nghiệp gỗ chẳng có liên hệ với nhau. Ông Lê Văn Lâm, Giám đốc Lâm trường Hà Nừng (Gia Lai), nói: "Chúng tôi là chủ rừng, chủ gỗ, nhưng thực ra lại không phải là ông chủ. Doanh nghiệp có thể đầu tư cho quản lý bảo vệ rừng. Chúng tôi chỉ ở trong rừng, ra đến cửa rừng chúng tôi không còn quyền. Gỗ lậu vẫn được sử dụng". Quả thực, từ sau chủ trương đóng cửa rừng năm 1997, chỉ còn hơn 100 lâm trường trong tổng số 245 lâm trường còn được phép khai thác gỗ từ rừng tự nhiên. Các lâm trường này hiện nay không được tiếp cận thị trường. Mua gỗ, bán gỗ phải theo kế hoạch, theo chỉ tiêu, các lâm trường không được quyền chủ động, lợi ích không rõ ràng.
Ông Nguyễn Ngọc Lung cho biết, sẽ xây dựng bộ Tiêu chuẩn Quốc gia về Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng. Bộ tiêu chuẩn này sẽ được gửi cho FSC thẩm định và thông qua. Khi các chủ rừng đã sẵn sàng, họ có thể mời các đoàn đánh giá quốc tế độc lập vào Việt Nam để tiến hành đánh giá và cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững cho các lâm trường và chứng chỉ gỗ cho các doanh nghiệp căn cứ trên bộ tiêu chuẩn đó. Theo quy trình này, đương nhiên phải có chứng chỉ rừng rồi mới có chứng chỉ gỗ. Lợi ích của các doanh nghiệp là với chứng chỉ của FSC, họ có thể bán gỗ được ra thị trường thế giới với giá cao hơn. "Trong khi thị phần có FSC ngày càng tăng, nếu các doanh nghiệp gỗ Việt Nam không chuẩn bị để theo kịp, chắc chắn trong tương lai, họ sẽ bị đào thải", đó là lời của doanh nghiệp Mỹ Nguyên, một trong những doanh nghiệp gỗ đã được cấp chứng chỉ hiện nay ở Việt Nam.
Theo các doanh nghiệp và các lâm trường, trước hết Nhà nước phải có những chính sách phù hợp, cụ thể là phải để các lâm trường được hưởng quy chế doanh nghiệp.
(Theo Lao Động, 4/6)