Theo ông Huỳnh Tấn Phong, Trưởng chi cục quản lý thị trường TP HCM, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2002, nhưng đến nay việc xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực như thương mại, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, hàng giả, sở hữu công nghiệp, giá cả... vẫn phải áp dụng các nghị định được ban hành từ trước đó. Một số quy định trong các nghị định lại không phù hợp và rất khó áp dụng khi xử phạt.
Ví như, trong lĩnh vực đấu tranh chống buôn lậu, từ trước 7/1998 việc xử phạt hành vi buôn bán hàng hóa nhập lậu trên thị trường được theo nghị định số 16/CP của Chính phủ. Đến ngày 22/8/1998, Bộ Thương mại lại có công văn hướng dẫn “hàng hóa nhập lậu lưu thông trên thị trường theo thông tư liên tịch đều phải xử lý tịch thu”. Khi xử lý hành chính thì áp dụng nghị định Nghị định 01/CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại để xử phạt. Từ đó đến nay, Bộ Thương mại chưa có hướng dẫn gì mới và Chi cục QLTT TP HCM căn cứ vào đó để xử phạt.
Tiếp nữa, đến ngày 8/10/2003, thông tư liên tịch của Liên Bộ Tài chính, Thương mại, Công an lại được ban hành và thay thế cho Thông tư cũ song vẫn không áp dụng được vì Nghị định không không quy định xử phạt như Thông tư. Cụ thể tại khoản 1 điều 3 của Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định “cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật của Quốc hội, Pháp lệnh và Nghị định. Các văn bản do Thủ tướng, bộ trưởng… không được quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức, mức xử phạt”. Ngày 25/2/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 100/2004 và cũng có quy định xử phạt đối với hàng hóa lưu thông không hóa đơn chứng từ. “Với những quy định và hướng dẫn như vậy, lực lượng QLTT không biết xử lý đối với hàng hóa nhập lậu như thế nào?”, ông Phong bức xúc.
Về quyền thực thi của người xử phạt, ông Phong cho biết, khoản 1 điều 56 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định việc gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt thể hiện người có thẩm quyền xin gia hạn. Quá thời hạn, người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt. Khoản 3 điều 21 Nghị định 134 quy định chi tiết lại nêu người có thẩm quyền xử phạt xin ra hạn lại. Các đơn vị thừa hành hiểu người có thẩm quyền xử phạt theo quy đinh tại nghị định134 như thế nào cho đúng vì trong Nghị định 134, ngoài điều 21 ra còn có một số điều khác cũng quy định người có thẩm quyền xử phạt. Ngoài người có thẩm quyền xử phạt ra, trong Nghị định 134 còn nêu người có quyết định tịch thu. Những quy định tại các điều này dễ dẫn đến tình trạng muốn hiểu như thế nào cũng được và cơ quan có thẩm quyền phán quyết là đơn vị có quyền có quyền cho cách hiểu của mình là đúng. “Trong khi đó, nếu mang cách hiểu cứng nhắc về 2 cụm từ này thì thực tế không áp dụng được”. Ông Phong nói.
Ngoài những khó khăn, vướng mắc do các văn bản pháp quy, trong thực thi công việc, lực lượng QLTT còn bị vướng trong nghiệp vụ. Ngày 11/2/2003, Bộ trưởng Bộ Thương mại ban hành quyết định số 0424/2003/QĐ-BTM về việc ban hành các ấn chỉ và quy định về quản lý, sử dụng ấn chỉ QLTT. Trong các ấn chỉ, Bộ đã ban hành các mẫu như biên bản vi phạm hành chính, biên bản khám xét nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính… Khi Chính phủ ban hành Nghị định 134 thì quy định “phải thực hiện theo mẫu ban hành kèm theo nghị định này”. Vì vậy, hiện nay một số quận, huyện, sở ngành đã không chấp nhận mẫu do Bộ thương mại phát hành.
Theo Trưởng chi cục quản lý thị trường TP HCM, trước những rắc rối mà văn bản pháp luật gây ra, đơn vị đã có văn bản kiến nghị để Quốc hội và Chính phủ điều chỉnh những bất hợp lý và hướng dẫn chi tiết các quy định. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có kết quả.
Tuấn Dũng