Sau biến cố của thị trường vừa qua, nhiều nhà đầu tư nhìn lại cuộc chơi và cuộc tranh luận giữa tình và lý xung quanh việc các công ty chứng khoán cắt, giảm tỷ lệ giao dịch ký quỹ (margin) đối với các cổ phiếu “dính” tin đồn như ACB, STB, EIB và MSN vẫn đang tiếp diễn. Không ít nhà đầu tư phản ứng gay gắt với công ty chứng khoán, nhất là những công ty có thị phần lớn về hoạt động margin.
Trong danh sách các cổ phiếu được giao dịch ký quỹ áp dụng từ ngày 30/8 của công ty chứng khoán TP HCM (HSC), cổ phiếu MSN của Công ty cổ phần Tập đoàn Masan có tỷ lệ margin giảm từ 40% xuống 30%. Việc giảm tỷ lệ margin thể hiện sự thận trọng của HSC với cổ phiếu này. Tuy nhiên, điều này còn khả dĩ hơn thông báo cắt margin cổ phiếu MSN từ hôm trước.
Công ty chứng khoán FPTS ngày 22/8 ra thông báo đưa 4 cổ phiếu ACB, STB, MSN, EIB ra khỏi danh mục margin, áp dụng từ ngày 23/8 và cho đến nay chưa đưa các cổ phiếu này trở lại danh mục. Công ty chứng khoán KimEng cũng công bố cắt margin một số cổ phiếu, nhưng danh mục cổ phiếu margin ngày 23/5 của công ty này hiện tại vẫn còn hiệu lực, mà chưa có thông báo mới, không rõ các cổ phiếu có tiếp tục được cho margin bình thường?
Thực tế, với lý do để đảm bảo an toàn, nhiều công ty chứng khoán đã đưa 4 cổ phiếu ACB, STB, MSN, EIB ra khỏi danh sách margin trong những phiên giao dịch “nhạy cảm” vừa qua của thị trường. Các cổ phiếu này không vi phạm tiêu chí nào về chỉ số tài chính, mà chủ yếu là do rủi ro về tin đồn và áp lực bán tháo của nhà đầu tư trước tin đồn. Công ty chứng khoán có quyền quyết định nhận hay không nhận margin với một cổ phiếu trong khuôn khổ quy định cho phép. Vì thế, việc cắt margin của công ty chứng khoán không sai luật.
Không ít nhà đầu tư phản ứng gay gắt với công ty chứng khoán khi các công ty này cắt, giảm tỷ lệ margin đối với các cổ phiếu “dính” tin đồn. |
Còn một lý do khác hết sức “nhạy cảm” là bài học từ các năm trước, khi một cổ phiếu bị bán tháo, mất thanh khoản, nhà đầu tư có thể dùng margin để mua lại chứng khoán của chính mình ở công ty chứng khoán khác. Với tỷ lệ 1:1, chỉ cần bỏ ra 1 tỷ đồng, nhà đầu tư có thể mua chứng khoán trị giá 2 tỷ đồng. Sau đó, nhà đầu tư rút tiền bên tài khoản bán và bỏ lại “cục” cổ phiếu margin cho công ty chứng khoán “ôm”.
Nhưng lần này, việc cắt margin của công ty chứng khoán lại đẩy một số nhà đầu tư đến chỗ phải bán ra cổ phiếu. Cụ thể, trong rổ cổ phiếu mà nhà đầu tư sở hữu, nếu một cổ phiếu bị cắt margin thì tỷ lệ an toàn giảm từ 140% (nếu cổ phiếu được margin tỷ lệ 40%) xuống còn 100% giá trị cổ phiếu. Sau đó, nếu cổ phiếu bị cắt margin tiếp tục giảm giá, nhà đầu tư phải nộp thêm tiền hoặc bị bán giải chấp những cổ phiếu khác để đảm bảo tỷ lệ an toàn.
Có công ty chứng khoán thông báo với nhà đầu tư về động thái bán giải chấp, nhưng theo cam kết thì công ty chứng khoán có toàn quyền bán chứng khoán của nhà đầu tư để đảm bảo tỷ lệ quy định của tài khoản margin. Không loại trừ khả năng trong rổ cổ phiếu của nhà đầu tư, công ty chứng khoán sẽ bán những cổ phiếu khác, chứ không bán cổ phiếu của chính công ty mình.
Sau khi sự cố thị trường chứng khoán tụt dốc chủ yếu vì tin đồn qua đi, nhà đầu tư lại đặt câu hỏi về tính minh bạch của thị trường và tính bảo mật thông tin của công ty chứng khoán, nhất là các công ty có thị phần lớn.
Liệu có khả năng công ty chứng khoán trong nước chừng được số lượng cổ phiếu được cầm cố, cộng với lượng hàng tự doanh và cổ phiếu của nhà đầu tư lớn mở tài khoản tại công ty, nên ra quyết định “bán khống”?. Nghi ngờ của Chủ tịch Ủy bán Chứng khoán Nhà nước về hành vi đầu cơ trục lợi, bán khống trong những phiên giao dịch bất thường vừa qua đang là một câu hỏi cần lời đáp trong vấn đề này.
Khi cổ phiếu bị bán tháo, giá giảm xuống mức hấp dẫn, trong khi nhà đầu tư không có margin để mua lại hàng giá rẻ thì tự doanh của công ty chứng khoán hay cổ đông lớn của công ty chứng khoán lại có thể mua. Sự xung đột quyền lợi giữa công ty chứng khoán vừa cung cấp dịch vụ, vừa tự doanh và nhóm nhà đầu tư có khả năng biết được thông tin của công ty chứng khoán, với các nhà đầu tư cá nhân khác có khả năng thành hiện thực, xuất phát từ sự bất đối xứng thông tin khi công ty chứng khoán có quyền nhìn bao quát các tài khoản, còn nhà đầu tư chỉ biết được tài khoản của chính mình.
Theo Đầu tư chứng khoán