Bên cạnh đó, các đơn vị còn được sử dụng tài sản đó để cầm cố trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nhận được trái phiếu đặc biệt, các ngân hàng thương mại nhà nước tuy không có được tiền mặt nhưng lại được ghi tăng vốn điều lệ, từ đó tăng khả năng huy động, tăng cho vay và có thêm cơ hội tăng lợi nhuận.
Về việc tại sao không bơm tiền mặt cho các ngân hàng thương mại mà lại chỉ sử dụng trái phiếu đặc biệt để ghi tăng vốn, bà Băng Tâm cho biết: "Trong giai đoạn hiện nay, chất lượng cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước chưa cao. Việc tiếp tục bơm khối lượng tiền mặt lớn làm tăng tín dụng quá nhanh, có nguy cơ gây thêm nhiều khoản nợ xấu. Nhất là việc này làm tăng nhanh tổng lượng tiền trong khâu lưu thông dẫn đến tăng áp lực lạm phát".
Tổng giá trị trái phiếu đặc biệt được phát hành là 7.840 tỷ đồng, phát hành trong các năm 2002-2004 với kỳ hạn 20 năm, lãi suất cố định là 3,3%/năm và được thanh toán 1 lần/năm. Tuy nhiên, phải sau 20 năm, các ngân hàng mới được thanh toán gốc. Trong thời gian này, một số đơn vị có thể khó khăn. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép các ngân hàng được sử dụng trái phiếu để cầm cố tạm vay vốn của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội về hoạt động này.
(Theo Thanh Niên)