Ông Võ Đình Trí là giảng viên tại IPAG Business School Paris (Pháp) và ĐH Kinh tế TP HCM, đồng thời là thành viên Hội Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global). Ông đã đưa ra những phân tích về cơ hội phát triển của đặc khu kinh tế dưới đây.
Kể từ khi thực hiện đổi mới, mở cửa hội nhập với thế giới, kinh tế xã hội của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực đáng kể, nhưng nguồn lực và tiềm năng của đất nước còn có thể vươn xa hơn. Suốt nhiều thập niên, mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam dựa vào tài nguyên (xuất khẩu thô) và FDI (công nghiệp gia công, lắp ráp) có độ thâm dụng lao động cao và giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị.
Trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, nhiều quốc gia đã hay đang phát triển đặt ra bài toán để vượt lên hay thích ứng. Một số nước đã thấy được vai trò của kinh tế số hóa, kinh tế tri thức nên tập trung đầu tư.
Nắm bắt được xu hướng trên, dường như là lý do chính để lập kế hoạch thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (đặc khu) là tạo nên một nơi có thể thực nghiệm mô hình phát triển mới, cả về kinh tế lẫn tổ chức quản lý hành chính tương ứng.
Mặc dù mô hình đặc khu đã có từ hàng thập niên trước, với những điển hình như Masdar, Okinawa, Dubai, Incheon, Tô Châu, Thẩm Quyến... nhưng mỗi đặc khu đều dựa trên những lợi thế cũng như cơ chế vận hành riêng, khác với các địa phương khác trong vùng hay cả nước. Điểm chung của các đặc khu là cơ chế vượt trội và tập trung thế mạnh vào một số ít lĩnh vực kinh tế.
Thâm Quyến (Trung Quốc) là một trong những đặc khu lớn trên thế giới |
Mô hình đặc khu của Việt Nam không giống hệt như các đặc khu khác đã thành công, vì sự vận động của nền kinh tế, địa chính trị làm thay đổi mô hình kinh tế.
Một số người e dè về khả năng thành công của mô hình này, nhưng tầm nhìn khi xây dựng các đặc khu mới là hướng đến nền kinh tế xanh và tri thức. Lấy trường hợp như Vân Đồn, mô hình phát triển của nơi này được định hướng đến tri thức và phát triển bền vững, cụ thể với những trụ cột như mô hình Living Lab, cực chống biến đổi khí hậu, mô hình mô phỏng thiên nhiên.
Đặc khu kinh tế Vân Đồn định hướng đến tri thức và phát triển bền vững. |
Sự lựa chọn những nơi có hạ tầng chưa phát triển nhưng khả năng kết nối tốt thay vì những trung tâm lớn như Hà nội và TP HCM có thể tạo nên khác biệt. Ví dụ, thay vì khó xây một khách sạn 5 sao trên cơ sở hạ tầng của khách sạn 3-4 sao, có thể xây ở một địa điểm mới hay xóa bỏ toàn bộ hạ tầng cũ để xây mới. Mô hình đặc khu không chỉ là nơi thực nghiệm mô hình kinh tế mới, mà còn cả tổ chức quản lý hành chính.
Có những lo ngại về ưu đãi và nguồn lực để thực hiện đặc khu. Khi áp dụng ưu đãi, các nước dựa trên cam kết dài hạn, chẳng hạn sau thời gian nhất định (4-10 năm) thì ưu đãi mới có hiệu lực. Các ưu đãi chỉ được áp dụng khi tuân thủ đầy đủ các quy định ban đầu, và chỉ trong một thời gian. Do đó, việc thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn lớn, cần dựa nhiều hơn vào chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh và triển vọng phát triển của đặc khu.
Để phát triển đặc khu theo hướng tri thức và bền vững, nguồn lực con người là điều quan trọng. Bên cạnh lực lượng lao động có khả năng thích ứng với nền kinh tế tri thức ở trong nước, Việt Nam còn có lượng trí thức đang sống, làm việc, học tập ở các nước phát triển. Trong các mạng lưới này, còn có thể tính đến đồng nghiệp, cơ quan, tập đoàn có uy tín lớn trên thế giới, nơi mà những người này công tác hay có mối liên hệ. Một nguồn lực khác cũng không kém phần quan trọng là lãnh đạo đặc khu.
Khi xây dựng được một đặc khu có hạ tầng cơ sở tốt, thân thiện môi trường, hướng đến phát triển bền vững và kinh tế tri thức, thì việc thu hút lao động chất lượng cao trong nước, quốc tế, những người gốc Việt trở về là điều khả thi.
Võ Đình Trí