Năm 1989, khi Bức tường Berlin sụp đổ, Douglas Ivester, người đứng đầu tập đoàn Coca-Cola châu Âu, đã có một quyết định bất ngờ. Ông cử nhóm bán hàng tới Berlin và yêu cầu họ xử lý số Coke ở đây. Coke được phát miễn phí. Thậm chí, các đại diện của Coca-Cola còn vứt cả các chai soda qua những lỗ thủng trên bức tường này. Ivester triệu tập mọi người đi bộ quanh Alexanderplatz ở Đông Berlin khi cuộc biến động xảy ra để tìm hiểu xem có ai nhận ra nhãn hiệu Coke không.
“Ở mỗi nơi đi qua, chúng tôi đều hỏi người dân xem họ đang uống gì và họ có thích Coca-Cola không. Nhưng, chúng tôi thậm chí không cần nói ra tên của nó! Chúng tôi chỉ mô tả bằng tay hình dáng chai Coca-Cola và mọi người đều hiểu. Vì thế, chúng tôi đã quyết định đưa thật nhiều Coca-cola đến đây càng nhanh càng tốt mà không cần biết mình sẽ nhận được bao nhiêu tiền”, ông nói.
Coca-Cola nhanh chóng thiết lập cơ sở kinh doanh ở Đông Đức, lắp đặt máy ướp lạnh miễn phí tại các cửa hàng. Trong ngắn hạn, việc làm này khá tốn kém vì đồng tiền Đông Đức vẫn mất giá – chúng chỉ là những mẩu giấy lộn đối với các nước khác trên thế giới. Nhưng đây lại là một quyết định kinh doanh rất thông minh, đi trước bất kỳ hoạt động nào của các cơ quan chính phủ. Năm 1995, mức tiêu thụ Coca-Cola bình quân đầu người ở Đông Đức cũ đã tăng lên bằng mức ở Tây Đức, vốn là một thị trường lớn mạnh của Coca-Cola.
Trên một phương diện nào đó, chính bàn tay vô hình của nhà kinh tế học Adam Smith đã chuyển Coca-Cola qua bức tường thành Berlin. Các đại lý bán Coca-Cola không phải phục vụ mục đích nhân đạo cao cả khi mang đồ uống cho những người dân Đông Đức mới được giải phóng. Họ chỉ quan tâm đến công việc kinh doanh - mở rộng thị trường toàn cầu, gia tăng lợi nhuận và làm hài lòng các cổ đông.
Các nhà kinh tế học đôi khi vẫn hỏi: “Ai nuôi sống Paris?” - một lối nói đầy hoa mỹ ám chỉ đến một loạt những hoạt động tạo đà vận hành cho nền kinh tế hiện đại, xảy ra vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Luôn có đúng số cá ngừ tươi cần thiết được chuyển từ một tàu đánh cá ở Nam Thái Bình Dương đến một nhà hàng ở Rue de Rivoli.
Một người bán dạo có đầy đủ những gì mà khách hàng của anh ta muốn vào mỗi buổi sáng - từ cà phê đến đu đủ tươi - cho dù những sản phẩm này có thể nhập về từ 10 đến 15 nước khác nhau. Tóm lại, trong một nền kinh tế phức tạp, có hàng tỷ giao dịch diễn ra mỗi ngày, và hầu hết đều không có sự tham gia trực tiếp của chính phủ. Và không chỉ có mọi thứ được hoàn thành, cuộc sống của chúng ta cũng theo đó dần trở nên tốt đẹp hơn. Bây giờ, bất cứ lúc nào, chúng ta cũng có thể đi mua một chiếc tivi màu để làm cho ngôi nhà của mình tiện nghi hơn. Điều đáng ngạc nhiên là vào năm 1971, một chiếc tivi màu 25 inch sẽ có giá trung bình là 174 giờ làm việc của một công nhân. Còn ngày nay, một tivi màu 25 inch với chất lượng tốt hơn, có nhiều kênh hơn và thu sóng tốt hơn chỉ mất trung bình 23 giờ lương.
Nếu bạn cho rằng một chiếc tivi rẻ hơn, tốt hơn không phải là giải pháp tốt nhất cho tiến bộ xã hội (tôi thừa nhận đây là một suy nghĩ hợp lý) thì có lẽ bạn sẽ thay đổi bởi thực tế trong suốt thế kỷ XX, tuổi thọ trung bình của người Mỹ tăng từ 47 lên 70, tỷ lệ trẻ em tử vong giảm mạnh 93% và chúng ta đã xóa bỏ hoặc kiểm soát được các căn bệnh như bại liệt, lao phổi, thương hàn và ho gà.
Gary Becker đã nhận xét: “Nền kinh tế là nghệ thuật tạo nên phần lớn cuộc sống này”. Kinh tế học đi sâu vào nghiên cứu cách bạn thực hiện điều đó. Mọi nhu yếu phẩm như dầu mỏ, sữa dừa, các sản phẩm làm đẹp, nước sạch… được cung cấp với số lượng rất hạn chế. Vậy chúng ta phân bổ những hàng hóa này như thế nào? Tại sao Bill Gates có máy bay riêng còn bạn thì không? Bạn có thể trả lời: “Đó là vì ông ta quá giàu”. Nhưng tại sao ông ta giàu? Tại sao ông ta có quyền sử dụng các nguồn lực khan hiếm còn người khác thì không? Có giải pháp nào cho một quốc gia giàu mạnh như Mỹ, nơi mà Alex Rodriquez có thể được trả 250 triệu đôla để chơi bóng chày, nhưng cũng là nơi mà cứ năm đứa trẻ thì có một đứa trẻ nghèo hoặc có rất nhiều người buộc phải lục lọi để kiếm thức ăn thừa?
Những người giàu có sẵn sàng trả 16 đôla để mua bánh sinh nhật cho chú chó cưng. |
Gần nhà tôi ở Chicago có cửa hàng Three Dog chỉ bán bánh ngọt và bánh nhồi cho chó. Những người giàu có sẵn sàng trả 16 đô-la để mua bánh sinh nhật cho những chú chó cưng của mình. Trong khi đó, Hiệp hội những người vô gia cư Chicago ước tính, mỗi đêm, thành phố này có tới 15 nghìn người phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất.
Sự bất bình đẳng này thậm chí còn rõ rệt hơn nếu chúng ta nhìn ra ngoài biên giới nước Mỹ. 3/4 người dân ở Chad (một quốc gia ở châu Phi) không có nước sạch để dùng. Ngân hàng Thế giới ước tính, một nửa dân số thế giới sống dưới mức 2 đôla một ngày. Vậy, tất cả những thực trạng trên diễn ra như thế nào?
Kinh tế học bắt đầu bằng một giả định hết sức quan trọng: Các cá nhân hành động vì muốn làm cho cuộc sống của họ khấm khá hơn. Hay nói chính xác, các cá nhân luôn tìm cách tối đa hóa lợi ích của mình. Khái niệm lợi ích ở đây tương tự như khái niệm hạnh phúc, chỉ có điều rộng lớn và bao quát hơn. Tôi hưởng lợi ích khi tiêm phòng thương hàn và trả thuế. Cả hai hoạt động này không làm tôi đặc biệt hạnh phúc nhưng chúng giúp tôi tránh được cái chết vì thương hàn hay bị bỏ tù. Về lâu dài, chúng làm cho cuộc sống của tôi tốt đẹp hơn. Các nhà kinh tế học không quan tâm quá nhiều đến những thứ đem lại lợi ích cho chúng ta, họ chỉ đơn giản chấp nhận rằng mỗi chúng ta có những “ưu tiên” khác nhau. Tôi thích cà phê, các ngôi nhà cổ, phim cổ điển, chó, đạp xe... Nhưng những người khác trên thế giới này có thể có những ưu tiên không giống thế.
Tuy nhiên, trên thực tế, ý kiến có vẻ đơn giản cho rằng mỗi cá nhân có những ưu tiên khác nhau này đôi khi lại bị các nhà hoạch định chính sách cấp cao bỏ qua. Ví dụ, người giàu có những ưu tiên khác với người nghèo. Và, ưu tiên của chúng ta có thể thay đổi trong suốt cuộc đời vì chúng ta sẽ trở nên giàu có hơn (chúng ta hy vọng như vậy). Cụm từ “hàng hóa xa xỉ” thật sự mang ý nghĩa chuyên môn đối với các nhà kinh tế học: Đó là những hàng hóa chúng ta sẽ mua nhiều khi chúng ta giàu có hơn, ví dụ như xe ôtô thể thao và rượu vang Pháp.
Hãy để tôi nói đến một điểm quan trọng khác liên quan đến những ưu tiên của chúng ta: Tối đa hóa lợi ích không đồng nghĩa với hành động ích kỷ. Năm 1999, tờ New York Times đã đăng cáo phó của Oseola McCarty, một người thợ giặt là qua đời ở tuổi 91 ở Hattiesburg, Mississippi. McCarty đã sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ, thiếu tiện nghi với một chiếc tivi đen trắng bắt được duy nhất một kênh truyền hình. Song, điều khiến bà McCarty trở thành một trường hợp đặc biệt đó là bà chẳng nghèo chút nào. Bốn năm trước khi chết, bà McCarty đã trao học bổng là 150 nghìn đôla cho bốn sinh viên nghèo vượt khó của trường Đại học Nam Mississippi, một ngôi trường mà bà chưa bao giờ theo học.
Hãy nhớ rằng tối đa hóa lợi ích không phải là một vấn đề đơn giản. Cuộc sống luôn phức tạp và thay đổi. Có vô số thứ mà chúng ta có thể thực hiện vào bất cứ lúc nào. Thực tế, mọi quyết định chúng ta làm đều đòi hỏi phải có sự đánh đổi nào đó. Chúng ta có thể đánh đổi lợi ích hiện tại để lấy lợi ích tương lai. Ví dụ, bạn có thể rất sung sướng khi nện mạnh lên đầu sếp bằng một mái chèo trong chuyến picnic tổ chức hàng năm của công ty. Nhưng sự bùng nổ đó có lẽ phải đền bù nhiều hơn vì bạn sẽ chẳng thu được lợi ích gì khi mất nhiều năm ngồi tù liên. Nói nghiêm túc hơn, nhiều quyết định quan trọng của chúng ta đòi hỏi phải có sự cân bằng giữa giá trị tiêu dùng hiện tại với giá trị tiêu dùng tương lai. Chúng ta có thể ăn mì tôm suốt những năm học đại học để đạt được công cụ cải thiện rất nhanh mức sống của chúng ta sau này. Hoặc ngược lại, chúng ta có thể dùng thẻ tín dụng để mua một chiếc tivi màn hình lớn ngày hôm nay dù khoản lãi trên số dư nợ thẻ tín dụng đó sẽ làm giảm số tiền mà chúng ta có thể tiêu dùng trong tương lai.
Tương tự, chúng ta cũng cần cân bằng giữa công việc và thời gian nghỉ ngơi. Nếu làm việc chăm chỉ 90 tiếng một tuần, một nhân viên ngân hàng đầu tư sẽ có thu nhập rất cao nhưng lại không có nhiều thời gian để hưởng thụ những hàng hóa có thể mua bằng chính thu nhập đó. Cậu em trai 29 tuổi của tôi là một nhà tư vấn quản lý thành công với mức lương rất cao. Nhưng đổi lại, em tôi làm việc quá nhiều, không theo một giờ giấc cố định nào cả và hầu như chẳng hưởng thụ được gì.
Rõ ràng, dù chúng ta kiếm được nhiều tiền nhưng số lượng hàng hóa và dịch vụ mà chúng ta có thể mua được là hữu hạn. Khi bạn mua cuốn sách này, có nghĩa là bạn đã bỏ qua một cuốn sách khác. Trong khi đó, thời gian là một trong những nguồn lực khan hiếm nhất của chúng ta. Ngay lúc này, bạn đang đọc sách thay vì làm việc, chơi đùa với chú chó cưng, nộp đơn theo học trường luật, đi mua tạp phẩm... Cuộc sống là những sự đánh đổi và kinh tế học cũng vậy.
Tóm lại, ra khỏi giường vào buổi sáng và chuẩn bị bữa ăn đòi hỏi bạn phải đưa ra những quyết định phức tạp. Vậy chúng ta nên thu xếp như thế nào? Câu trả lời là mỗi chúng ta hãy cân nhắc kỹ giữa chi phí và lợi ích của những thứ mà chúng ta đang cố gắng thực hiện. Một nhà kinh tế học sẽ nói, chúng ta cố gắng tối đa hóa lợi ích trong điều kiện nguồn lực có sẵn của mình, còn bố tôi sẽ nói, chúng ta cố gắng mua được nhiều hàng hóa nhất với số tiền của mình. Hãy nhớ rằng những thứ đem lại lợi ích cho chúng ta không phải là những hàng hóa hữu hình. Nếu bạn so sánh hai công việc dạy toán tại trường trung học cơ sở và tiếp thị thuốc lá Camel, thì công việc sau chắc chắn sẽ mang lại nhiều tiền hơn trong khi công việc trước chỉ đưa ra “những lợi ích tinh thần” lớn hơn. Đó là một lợi ích hoàn toàn hợp pháp nhưng với chi phí là mức lương thấp hơn.
Tương tự, khái niệm chi phí không chỉ dừng lại ở những đồng đôla và xu mà bạn nhét vào máy đếm tiền. Chi phí thật sự của một món hàng nào đó là những gì bạn phải từ bỏ để có được nó. Chi phí này không chỉ là tiền mặt. Những chiếc vé xem hòa nhạc sẽ không còn là miễn phí nếu bạn phải đứng xếp hàng dưới mưa sáu tiếng đồng hồ để có được chúng. Đi xe buýt 1,5 đôla không rẻ hơn đi taxi 7 đôla nếu bạn trễ hẹn với một khách hàng khó tính. Mua hàng tại một cửa hàng giảm giá sẽ tiết kiệm được tiền nhưng thường mất thời gian. Tôi là một nhà văn, tôi nhận tiền từ những gì tôi viết. Tôi có thể lái xe 90 dặm đến một đại lý tại Kenosha, Wisconsin để tiết kiệm 50 đôla khi mua một đôi giày dạ hội mới. Hoặc tôi có thể đi bộ ở phía trung tâm thành phố và mua giày trong khi tôi đi ra ngoài ăn trưa. Nhưng tôi thường chọn cách sau với tổng chi phí là 225 đôla, thời gian là 15 phút và đôi khi chịu cả sự quát tháo ầm ĩ từ mẹ tôi (Bà sẽ hỏi liên tục: “Tại sao con không lái xe đến Kenosha để mua hàng giá rẻ?”).
Mọi biểu hiện trong hành vi con người đều phản ánh sự thay đổi chi phí. Khi chi phí của một món hàng giảm, nó sẽ trở nên hấp dẫn hơn với chúng ta. Bạn có thể thấy điều này trên đường cầu hoặc khi đi mua hàng sau ngày Giáng sinh - khi mọi người đổ xô đi mua những thứ không cần thiết với mức giá rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài ngày. Ngược lại, khi chi phí của một món hàng tăng lên, chúng ta sẽ sử dụng nó ít đi. Mọi thứ trong cuộc sống cũng vậy, ngay cả thuốc lá và cocain dạng bột.
Theo tính toán của các nhà kinh tế học, giá cocain giảm xuống 10% sẽ khiến số người sử dụng tăng lên khoảng 10%. Tương tự, khi ngành công nghiệp thuốc lá tăng giá mỗi bao thuốc lên 34% theo quy định của các bang, số trẻ vị thành niên hút thuốc đã giảm xuống 1/4, tương đương với khoảng 1,3 triệu người. Tất nhiên, xã hội cũng tăng thêm các chi phí khác mà giá ghi trên bao thuốc không phản ánh được. Đứng bên ngoài một tòa nhà khi nhiệt độ ngoài trời là 17độC hiện cũng là một phần của chi phí hút thuốc nơi công sở.
Quan điểm chi phí rộng lớn này có thể giải thích cho những hiện tượng xã hội rất quan trọng. Một trong những hiện tượng này là tỷ lệ sinh giảm nhanh ở các nước phát triển. Nuôi một đứa con vào thời điểm hiện nay tốn kém hơn cách đây năm năm. Nguyên nhân không phải vì chi phí ăn uống và may mặc cho đứa trẻ cao hơn trước đây. Trên thực tế, những chi phí này đã giảm, bởi năng suất sản xuất những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu như thực phẩm và quần áo đã tăng cao hơn trước rất nhiều. Thực chất, thực trạng trên là do chi phí ban đầu của việc nuôi một đứa trẻ ngày hôm nay là chi phí cho thu nhập khi một cặp vợ chồng, mà thường xuyên là người mẹ, phải ngừng hoặc giảm thời gian làm việc để ở nhà chăm sóc con cái. Bởi vì hiện nay cơ hội trau dồi nghiệp vụ chuyên môn của phụ nữ tốt hơn trước kia nên họ sẽ chịu nhiều tốn kém hơn khi nghỉ làm. Người hàng xóm của tôi trước là một nhà thần kinh học. Khi sinh đứa thứ hai, cô quyết định nghỉ ở nhà. Và rõ ràng, chi phí bỏ việc là rất tốn kém.
Trong khi đó, hầu hết những lợi ích kinh tế của việc có một gia đình lớn dường như không còn tồn tại ở các nước công nghiệp. Những đứa bé từ lâu không còn phải phụ giúp bố mẹ các việc vặt trong nông trại hoặc tạo thêm thu nhập cho gia đình (mặc dù khi bé, chúng có thể được dạy cách bán một vại bia từ máy lạnh). Từ lâu, chúng ta cũng không cần có nhiều con cái để đảm bảo rằng sau này, chúng ta sẽ có nơi nương tựa lúc về già. Mặc dù những nhà kinh tế học khắc khổ thừa nhận, chúng ta có được niềm vui lớn khi có con, nhưng có 11 đứa con bây giờ tốn kém hơn trước kia rất nhiều. Các số liệu cũng chứng minh cho luận điểm này: Năm 1905, trung bình mỗi phụ nữ Mỹ có 3,77 đứa con, còn hiện tại, con số này chỉ còn 2,07 (tức, đã giảm 45%).
Có một giả định rất thuyết phục khác củng cố cho toàn bộ quan điểm kinh tế học: Các đơn vị kinh doanh - từ một tay bán thịt chó nướng đến một tập đoàn đa quốc gia – đều cố gắng tối đa hóa lợi nhuận (doanh thu có được từ việc bán hàng trừ đi chi phí sản xuất ra nó). Tóm lại, các công ty luôn tìm cách thu được càng nhiều tiền càng tốt. Do đó, chúng tôi có một câu trả lời cho một trong những câu hỏi rất được quan tâm trong cuộc sống: “Tại sao một doanh nhân băng qua đường?” và câu trả lời là: “Bởi vì anh ta có thể tạo ra nhiều tiền hơn khi ở bên kia đường.”
Các công ty lấy đầu vào như đất đai, sắt thép, kiến thức, các sân bóng rổ… và kết hợp chúng với nhau theo cách nào đó để tối đa hóa giá trị. Quá trình này có thể đơn giản như việc bán những chiếc ô rẻ tiền trên một góc phố tấp nập của thành phố New York hay phức tạp như lắp ráp một chiếc trực thăng quân sự trị giá 80 triệu đôla. Một công ty làm ăn có lãi giống như một bếp trưởng mang về nhà 30 đôla nguyên liệu thực phẩm và tạo ra bữa ăn trị giá 80 đôla. Bằng tài năng, người bếp trưởng đã tạo ra thứ gì đó đáng giá hơn nhiều chi phí của những nguyên vật liệu mua vào. Thông thường, công việc này không đơn giản chút nào. Các công ty phải quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất ở đâu, sản xuất bao nhiêu là đủ và bán những gì sản xuất ra với giá bao nhiêu - tất cả đều được xét trong những tình huống nhiều biến động mà chính người tiêu dùng cũng đang phải giải quyết.
Giá cả giống như những chiếc bảng quảng cáo bằng đèn neon khổng lồ làm sáng lên những thông tin quan trọng. Chúng ta từng đặt ra câu hỏi “Tại sao một nhà hàng ở Rue de Rivoli tại Paris gần như luôn có đúng số lượng cá ngừ cần thiết?” Tất cả là nhờ giá cả. Khi những khách hàng quen bắt đầu đặt nhiều món khai vị sashimi hơn, chủ nhà hàng sẽ đặt một hợp đồng lớn hơn với người bán cá. Nếu các nhà hàng khác cũng cần nhiều cá ngừ, giá bán buôn sẽ tăng lên. Hay nói cách khác, khi đánh bắt cá ngừ, các ngư dân sẽ thu được nhiều tiền hơn. Ngư dân sẽ nhanh chóng nhận ra cá ngừ đang áp đảo các loại cá khác và họ bắt đầu chuyển sang đánh bắt cá ngừ thay vì cá hồi. Còn những ngư dân đánh bắt cá ngừ từ trước đó sẽ đánh bắt dài ngày hơn hoặc chuyển sang một phương pháp đánh bắt hiệu quả hơn nhưng cũng tốn kém hơn, khiến giá cá ngừ tăng cao hơn. Những ngư dân này không quan tâm đến những bữa ăn tối đang ngày càng đắt đỏ ở Paris, điều họ quan tâm duy nhất là giá bán buôn cá mà thôi.
Cơ hội kiếm lợi nhuận biến các công ty trở thành những con cá mập say mùi máu. Chúng ta tìm kiếm những phương thức mới để kiếm tiền dễ dàng hơn (tạo ra Người sống sót). Nếu thất bại, chúng ta mong ngóng được góp phần vào công việc kinh doanh tạo ra lợi nhuận khổng lồ cho một ai đó (bằng cách ấy, tạo ra Đảo Cám dỗ). Trong quá trình này, chúng ta sử dụng giá để đo nhu cầu của người tiêu dùng. Tất nhiên, không phải mọi thị trường đều mở cửa chào đón chúng ta. Khi Michael Jordan ký một hợp đồng trị giá 30 triệu đôla mỗi năm với Chicago Bulls, tôi nghĩ thầm “Mình cũng muốn chơi bóng rổ cho Chicago Bulls”.
Tôi sẽ rất vui với mức giá 28 triệu đôla hoặc nếu bị ép quá, mức giá 28 nghìn đôla vẫn rất tuyệt vời. Tuy nhiên, có một số yếu tố ngăn cản tôi tham gia thị trường đó: (1) tôi mới 15 tuổi; (2) tôi chậm chạp; và (3) khi chịu áp lực nặng nề, tôi thường bỏ lỡ cơ hội. Tại sao Michael Jordan được trả 30 triệu đôla một năm? Bởi vì không ai có thể chơi bóng tốt như anh ta. Tài năng có một không hai của Jordan đã tạo ra rào cản gia nhập đối với những người khác. Michael Jordan cũng là một người hưởng lợi từ những gì mà Sherwin Rosen - nhà kinh tế học lao động của Đại học Chicago - gọi là hiện tượng “siêu sao”.
Sự hơn kém chút ít về tài năng có xu hướng bị đánh giá quá mức khi thị trường trở nên rộng lớn hơn. Trong cuộc cạnh tranh đó, để có được thị phần lớn hơn (và lợi nhuận lớn hơn), người ta chỉ cần giỏi hơn người khác chút ít. Trường hợp của Katie Couric là một ví dụ khác. NBC trả cho cô 60 triệu đôla trong vòng bốn năm rưỡi để cô tiếp tục dẫn chương trình Today Show. Cô không cần làm tốt hơn gấp 10 hay 20 lần đối thủ cạnh tranh để có mức lương đó, mà chỉ cần làm tốt hơn một chút thôi, và thế là sẽ có hàng triệu khán giả bật kênh NBC vào buổi sáng thay vì xem một kênh khác.
Nhiều thị trường đặt ra rào cản tự nhiên để ngăn các công ty mới gia nhập. Nấm truffle có giá 500 đôla/pound bởi vì người ta không thể trồng nấm truffle; chúng chỉ lớn lên ở những vùng hoang vu và phải là do những chú lợn hay chó săn nấm đào lên. Đôi khi, việc gia nhập thị trường cũng phải chịu những rào cản pháp lý. Đừng cố tìm cách bán viagra ở góc phố nào đó nếu bạn không muốn kết thúc cuộc đời trong nhà giam. Nó không phải là ma túy và cũng không bất hợp pháp. Nguyên nhân chỉ là vì Pfizer đã nắm giữ bằng sáng chế sản phẩm - một hình thức chứng nhận độc quyền hợp pháp mà chính phủ cấp cho Pfizer.
Các nhà kinh tế học có thể tranh cãi về thời gian có hiệu lực của một bằng sáng chế hay những kiểu phát minh nên được cấp bằng, nhưng hầu hết họ đều đồng ý rằng rào cản gia nhập do một sáng chế tạo ra là động cơ khuyến khích quan trọng để những công ty tiến hành đầu tư phát triển sản phẩm mới. Vì những lý do không rõ ràng, chính trị cũng tạo ra những rào cản gia nhập thị trường. Khi phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các nhà sản xuất ôtô Nhật Bản vào những năm 1980, các nhà sản xuất ôtô Mỹ có hai sự lựa chọn cơ bản: (1) sản xuất những chiếc ôtô tốt hơn, rẻ hơn, tốn ít nhiên liệu hơn; hoặc (2) đầu tư cho những chuyên gia vận động hành lang - những người sẽ thuyết phục quốc hội Mỹ ban hành các sắc thuế và hạn ngạch không cho ôtô Nhật xâm nhập vào thị trường Mỹ.
Giống như người tiêu dùng, các công ty cũng phải đối mặt với những lựa chọn bất lợi. Tương tự, nguyên tắc giải quyết vấn đề cũng tương đối đơn giản: Điều gì sẽ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho công ty trong dài hạn?
Tất cả những điều này đưa chúng ta đến điểm giao nhau giữa nhu cầu của người sản xuất và người tiêu dùng. Bạn sẽ trả bao nhiêu cho con chó bày trong tủ kính? Phần mở đầu của kinh tế học đưa ra một câu trả lời hết sức đơn giản: giá thị trường. Toàn bộ vấn đề đều liên quan đến cung và cầu. Giá cả sẽ ổn định tại điểm số lượng chó bán ra đáp ứng chính xác số lượng chó mà người tiêu dùng muốn mua. Nếu nhu cầu của người mua cao hơn số lượng chó có sẵn thì giá bán chó sẽ tăng lên. Một số người tiêu dùng quyết định mua chồn sương thay thế, còn một số cửa hàng bán chó sẽ bán nhiều chó hơn. Cuối cùng, cung sẽ đáp ứng cầu. Điều đáng lưu ý là một số thị trường thật sự hoạt động theo đúng quy trình này. Nếu tôi chọn bán một trăm cổ phiếu Microsoft trên thị trường NASDAQ, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận “giá thị trường”. Mức giá này là giá cổ phiếu mà tại đó số người bán cổ phiếu Microsoft trên thị trường ngang bằng với số người mua.
Giá cả sẽ ổn định tại điểm cung đáp ứng cầu…
Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường đều không hoàn toàn giống như trên lý thuyết. Không có mức “giá thị trường” nào cho sản phẩm dệt may của Gap - một hãng may mặc có tiếng trên thị trường Mỹ. Giống như nhiều công ty khác, Gap có mức độ ảnh hưởng nhất định đến thị trường, hay nói cách khác, Gap có thể kiểm soát mức giá của sản phẩm. Gap có thể bán với giá 9,99 đôla để nhận lấy lợi nhuận rất nhỏ trên mỗi chiếc áo. Hoặc, nó có thể bán với giá 29,99 đôla và thu được lợi nhuận cao gấp nhiều lần bù lại doanh số thấp. Nếu làm một phép tính, chúng ta sẽ ngay lập tức tìm ra mức giá tối đa hóa lợi nhuận. Về cơ bản, Gap sẽ đưa ra một mức giá hợp lý để thu về lợi nhuận lớn nhất cho công ty. Đến đây, các chuyên gia marketing có thể sai lầm: Họ có thể định giá quá thấp và sản xuất đến đâu, bán hết đến đó; hoặc, họ có thể định giá quá cao và vì thế sẽ có một nhà kho chất đầy sản phẩm tồn.
Trên thực tế, các doanh nghiệp còn có một lựa chọn khác. Họ có thể bán cùng một mặt hàng cho các đối tượng khách hàng khác nhau với mức giá khác nhau (với cách gọi hoa mỹ là “sự phân biệt về giá”). Nếu lần tới bạn đi máy bay, hãy thử làm phép thử này: Hãy hỏi người ngồi bên cạnh tiền vé máy bay anh ta mua là bao nhiêu. Mức giá có thể không giống mức giá bạn đã trả; thậm chí, nó cũng không xấp xỉ bằng nhau. Bạn đang ngồi với anh ta trên cùng một chiếc máy bay, đi đến cùng một nơi, ăn cùng một loại thức ăn, nhưng giá mà bạn và người ngồi cùng hàng ghế với bạn đã trả lại khác xa nhau.
Thách thức cơ bản đối với ngành công nghiệp hàng không là sự phân biệt giữa doanh nhân sẵn sàng trả một khoản tiền lớn với khách đi du lịch với khả năng tài chính hạn hẹp hơn. Nếu một hãng hàng không không phân biệt giá vé máy bay thì khách hàng sẽ để tiền trên bàn mà không quan tâm mức giá là bao nhiêu. Một doanh nhân có thể sẵn sàng bỏ ra 1.800 đôla để bay một vòng từ Chicago tới San Francisco, trong khi, một người muốn dự đám cưới của người anh họ sẽ miễn cưỡng trả không quá 250 đôla. Nếu tính phí quá cao, hãng hàng không sẽ mất toàn bộ khách du lịch. Còn nếu đưa ra giá vé thấp, nó sẽ mất tất cả lợi nhuận mà doanh nhân sẵn sàng trả. Vậy, hãng hàng không phải làm thế nào? Phân biệt doanh nhân với khách đi du lịch và tính giá vé khác nhau cho mỗi nhóm khách hàng.
Các hãng hàng không rất giỏi phân biệt giá. Tại sao vé máy bay của bạn lại giảm mạnh nếu bạn ở qua đêm vào tối thứ 7? Bởi vì tối thứ 7 là khi bạn sẽ đi nhảy tại đám cưới của người anh họ. Khách đi du lịch thường dành ngày nghỉ cuối tuần thư giãn ở nơi họ đến, trong khi doanh nhân hầu như chẳng bao giờ làm như vậy. Mua vé trước hai tuần sẽ rẻ hơn rất, rất nhiều so với mua vé trước khi máy bay cất cánh 11 phút. Những người đi nghỉ thường có kế hoạch trước trong khi doanh nhân thường mua vé vào phút chót. Các hãng hàng không là ví dụ rõ ràng nhất về sự phân biệt đối xử giá, nhưng cứ nhìn xung quanh đi, bạn sẽ bắt đầu thấy hiện tượng này xuất hiện ở khắp mọi nơi. Nhiều người than phiền thuốc cho người và cho chú chó cưng giống nhau nhưng mức giá lại chênh lệch một trời một vực. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Ghế ngồi máy bay cũng vậy. Mọi người sẽ trả tiền mua thuốc cho mình nhiều hơn là trả tiền mua thuốc cho chú chó của họ. Vì vậy, để tối đa hóa lợi nhuận, hãng dược phẩm phải tính một giá cho các bệnh nhân hai chân và một giá khác cho những bệnh nhân bốn chân.
Chúng ta có thể rút ra điều gì từ tất cả những ví dụ trên? Người tiêu dùng cố gắng làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn và các công ty cũng cố gắng tối đa hóa lợi nhuận. Tất cả các khái niệm đều đơn giản, nhưng chúng có thể nói cho chúng ta rất nhiều điều về cách thức hoạt động của thế giới này.
Nền kinh tế thị trường giúp cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn. Cách duy nhất để các công ty tạo ra lợi nhuận là bán hàng hóa mà khách hàng muốn mua. Họ tạo ra những sản phẩm mới - từ cà phê đến thuốc kháng sinh cứu người. Hoặc họ làm cho sản phẩm hiện có trở nên rẻ hơn hay tốt hơn. Hình thức cạnh tranh này mang lại cho người tiêu dùng những lợi ích hết sức có to lớn. Năm 1990, cuộc gọi 3 phút từ New York đến Chicago mất khoảng 5,45 đôla. Nhưng hiện nay, cước phí giảm xuống, chỉ còn chưa đến 1/4 mức đó. Lợi nhuận là tiền đề để tạo ra những công trình vĩ đại nhất của chúng ta trong cả những lĩnh vực như giáo dục, nghệ thuật và y tế. Bạn đã bao giờ tự hỏi có bao nhiêu nhà lãnh đạo thế giới bay tới Triều Tiên khi họ cần phẫu thuật tim?
Đồng thời, thị trường nằm ngoài phạm vi luân lý. Không phải là trái đạo đức, mà chỉ đơn giản là phi luân lý. Thị trường tưởng thưởng cho sự khan hiếm vốn không có mối liên hệ với giá trị. Kim cương có giá hàng ngàn đô-la một cara nhưng nước gần như là miễn phí. Nếu không có kim cương, thì cùng lắm chúng ta sẽ chỉ cảm thấy khó chịu; còn nếu không có nước, chúng ta sẽ chết. Thị trường không cung cấp hàng hóa mà chúng ta cần; nó cung cấp hàng hóa mà chúng ta muốn mua. Đây là sự khác biệt quan trọng. Hệ thống y tế của chúng ta không cung cấp bảo hiểm y tế cho người nghèo. Tại sao vậy? Bởi vì họ không có tiền để trả.
Các bác sĩ tài năng nhất của chúng ta cung cấp dịch vụ nâng ngực và xóa nếp nhăn cho các ngôi sao Hollywood. Tại sao? Bởi vì họ có thể trả tiền cho dịch vụ đó. Tại sao các băng đảng tội phạm châu Âu bắt cóc và bán những cô gái trẻ Đông Âu vào các ổ mại dâm ở những nước giàu có hơn? Bởi vì hoạt động này sinh lời. Thị trường này có vẻ đang phát triển; nó là một lực lượng có thế lực lấy sức mạnh từ sự nhanh nhẹn, khỏe mạnh và thông minh. Bạn hãy nhớ rằng hai trong số những loài thích nghi tốt nhất trên hành tinh này là chuột và gián.
Bởi vì chúng ta sử dụng giá để phân phối hàng hóa nên hầu hết các thị trường đều có khả năng tự điều chỉnh. Theo định kỳ, nhà lãnh đạo của các quốc gia OPEC sẽ gặp mặt ở một nơi tuyệt đẹp và nhất trí hạn chế sản lượng dầu mỏ trên toàn cầu. Một vài hệ quả sẽ xảy ra ngay sau đó: (1) giá xăng dầu và khí đốt bắt đầu tăng lên; và (2) các chính trị gia bắt đầu tiến hành ý tưởng can thiệp vào thị trường dầu mỏ. Nhưng giá cả giống như một cơn sốt; chúng vừa là một triệu chứng vừa là một liều thuốc tiềm ẩn. Trong khi các chính trị gia vội vã bước vào Nhà trắng, thì một số hiện tượng trọng yếu khác bắt đầu xảy ra. Chúng ta lái xe ít hơn. Chúng ta cầm tờ hóa đơn nhiên liệu lò sưởi và quyết định xây thêm gác xép. Chúng ta tới gian hàng của Ford, đi qua Expedictions tới Escorts (tên các dòng xe của Ford).
Nhiều hiện tượng cũng bắt đầu xảy ra ở bên cung. Các nhà sản xuất dầu mỏ không thuộc OPEC bắt đầu cung cấp nhiều dầu hơn để tận dụng giá cao; còn các nước OPEC bắt đầu gian lận hạn ngạch sản xuất. Các công ty dầu mỏ trong nước bắt đầu khai thác mạnh tay ngay cả khi giá dầu mỏ còn thấp. Trong khi đó, rất nhiều người thông minh bắt đầu làm việc nghiêm túc hơn để tìm và bán các nguồn năng lượng thay thế. Giá xăng dầu và khí đốt bắt đầu giảm khi cung tăng và cầu giảm.
Nếu chúng ta ấn định giá cho thị trường, các công ty tư nhân sẽ tìm cách khác để cạnh tranh. Những người tiêu dùng thường nhìn lại “đầy lưu luyến” những ngày đầu đi du lịch máy bay, khi thức ăn ngon hơn, ghế ngồi rộng rãi và mọi người ăn mặc nghiêm chỉnh khi đi máy bay. Đây không chỉ là một cách nói luyến tiếc, chất lượng hàng không đã giảm đi nhanh chóng. Nhưng giá vé máy bay giảm còn nhanh hơn. Trước năm 1978, giá vé máy bay do chính phủ ấn định. Mọi chuyến bay từ Denver tới Chicago đều có giá như nhau, nhưng các hãng hàng không Mỹ vẫn cạnh tranh để thu hút khách. Họ sử dụng chất lượng để phân biệt với các hãng khác. Khi quy định này của ngành công nghiệp hàng không bị bãi bỏ thì giá trở thành đích nhắm đầu tiên cho cuộc cạnh tranh, có lẽ bởi vì đó là những gì người tiêu dùng quan tâm nhiều hơn cả. Kể từ đó, mọi thứ liên quan đến việc đi máy bay trở nên kém dễ chịu hơn, nhưng giá trung bình, được điều chỉnh theo lạm phát đã giảm đi gần một nửa.
Giao dịch thị trường có lợi cho tất cả các bên tham gia. Các công ty hoạt động vì lợi ích cao nhất của họ và người tiêu dùng cũng vậy. Đây là một ý tưởng đơn giản nhưng có sức mạnh to lớn. Hãy xem ví dụ sau: Khó khăn với những nhà máy bóc lột công nhận nặng nề là do họ không có đủ công nhân. Những công nhân đủ tuổi lao động làm việc tự nguyện trong những cơ sở sản xuất gò bó và lương thấp này. (Tôi không nói đến lao động bị ép buộc hay lao động trẻ em trong trường hợp này). Vì thế, một trong hai trường hợp sau sẽ đúng: hoặc (1) công nhân làm việc ở các nhà máy bóc lột công nhân nặng nề bởi vì đây là lựa chọn việc làm tốt nhất mà họ có; hoặc (2) các công nhân của công ty bóc lột này là những người kém hiểu biết nên họ không biết tận dụng những cơ hội việc làm hấp dẫn hơn.
John F. Kennedy có một câu câu nói rất nổi tiếng: “Cuộc sống không công bằng.” Chủ nghĩa tư bản cũng không công bằng ở một mức độ nào đó. Vậy, nó có còn là một hệ thống tuyệt vời không?
Theo tôi, nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế mà dân chủ là ở chính phủ: một lựa chọn nếu không được coi là hoàn hảo thì cũng là khá tốt so với nhiều lựa chọn thay thế tồi tệ. Các thị trường phù hợp với những quan điểm tự do cá nhân của chúng ta. Chúng ta có thể không nhất trí với việc chính phủ quy định chúng ta phải đội mũ bảo hiểm mô tô, nhưng hầu hết chúng ta đều nhất trí rằng nhà nước không phải thảo thành luật chúng ta sống ở đâu, làm gì để sinh sống hoặc làm thế nào để tiêu tiền. Đúng vậy, không có cách nào hợp lý hóa số tiền mà tôi bỏ ra để mua chiếc bánh sinh nhật cho chú chó của mình trong khi số tiền đó có thể dành để tiêm chủng cho hai đến ba em nhỏ ở châu Phi. Nhưng bất kỳ hệ thống nào buộc tôi phải chi tiền mua vắc xin thay vì mua bánh sinh nhật cho chú chó cưng có thể sẽ vấp phải sự phản đối.
(Trích cuốn "Đôla hay lá nho?" do Alpha Books phát hành)