Thông tư 19 với nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn vốn trong hoạt động của tổ chức tín dụng vừa được Ngân hàng Nhà nước (SBV) công bố tối nay (27/9), 3 ngày sau khi nhận được yêu cầu từ Văn phòng Chính phủ.
Việc sửa đổi Thông tư 13 được chờ đợi trong suốt thời gian qua. Ảnh minh họa: Hoàng Hà |
Trong số 4 điểm được nêu tại Thông tư sửa đổi, Ngân hàng Nhà nước không đề cập tới tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng thương mại. Như vậy, tỷ lệ này vẫn sẽ được giữ nguyên ở mức 9% (vốn tự có so với tổng tài sản) như tại Thông tư 13. Tuy nhiên, những thay đổi được nêu ra cũng rất đáng kể.
Sửa đổi đầu tiên được ghi nhận tại Khoản 2 Điều I (quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn vốn được quy định tại Thông tư), khi “tỷ lệ cấp tín dụng so nguồn vốn huy động” được sửa thành “tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động”. Sửa đổi này tuy nhỏ về câu chữ, nhưng lại có ý nghĩa lớn. Bởi điều này đồng nghĩa với việc Ngân hàng có thể sử dụng vốn tự có để cấp tín dụng.
Một thay đổi đáng chú ý khác cũng được Ngân hàng Nhà nước đưa ra tại Điều 12, khi tổng tài sản “có” để thanh toán ngay của ngân hàng được sửa từ “phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi không kỳ hạn, trị giá sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn (hoặc có kỳ hạn đến ngày thanh toán) tại tổ chức tín dụng khác” thành toàn bộ “số dư tiền gửi” tương ứng.
Thay đổi này sẽ giúp tài sản “có” của ngân hàng tăng lên đáng kể và dễ dàng thỏa mãn tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh toán tối thiểu bằng 15% tổng tài sản nợ trong ngày.
Thay đổi quan trọng nhất được ghi nhận tại Điều 18, quy định về tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động, khi Ngân hàng Nhà nước cho phép tính thêm 25% tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và tiền vay của tổ chức tín dụng khác (kỳ hạn trên 3 tháng) vào nguồn vốn huy động.
Như vậy, tuy vẫn giữ nguyên tỷ lệ cấp tín dụng là 80% đối với ngân hàng và 85% cho tổ chức phi ngân hàng nhưng do tổng nguồn vốn tăng lên, ngân hàng sẽ được phép cấp nhiều tín dụng hơn cho nền kinh tế.
Thay đổi cuối cùng được ghi nhận tại Phụ lục 2 về Bảng theo dõi tỷ lệ khả năng chi trả. Tuy nhiên đây chỉ là một thay đổi mang tính kỹ thuật khi Ngân hàng Nhà nước cho phép sử dụng thêm một số đơn vị tiền tệ khác, bên cạnh đồng Việt Nam, để theo dõi tỷ lệ chi trả của các tổ chức tín dụng.
Nhật Minh