Khó ai có thể phủ nhận ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của Việt Nam. Hầu hết các lĩnh vực liên quan đến thế giới đều bị tác động mạnh bởi cơn bão tài chính. Trong đó, giá trị xuất khẩu giảm 9,3% trong năm 2009, du lịch giảm 15,4%, đầu tư giảm trên 70%…
Tuy vậy, tôi cho rằng cú va đập mà Việt Nam phải gánh chịu đã được giảm nhẹ rất nhiều do một số nguyên nhân:
Nguyên nhân đầu tiên là việc chúng ta chưa hội quá sâu vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Ta chưa có quan hệ vay nợ nhiều với các tổ chức tín dụng quốc tế nên kinh tế trong nước hầu như không bị ảnh hưởng khi hệ thống tài chính toàn cầu chao đảo với 169 ngân hàng phá sản tại Mỹ.
Ngược lại, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, với tư cách là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), lại được hưởng lợi do không phải chịu hàng rào thuế quan quá ngặt nghèo như trước khi gia nhập.
"Tôi lo rằng chúng ta có thể để lỡ cơ hội tái cấu trúc nền kinh tế". Ảnh: N.M |
Nguyên nhân thứ hai là tính chất nông nghiệp của nền kinh tế nước ta. Cuộc suy thoái vừa qua thực chất là một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đi kèm với khan hiếm lương thực, tài nguyên. Bởi vậy, doanh nghiệp ta được lợi từ những mặt hàng này.
Nguyên nhân thứ ba nằm ở thị trường nội địa với hơn 86 triệu dân của Việt Nam. Trước đây, doanh nghiệp ta hay bỏ quên thị trường này vì mải mê chạy theo xuất khẩu. Cuộc khủng hoảng vừa qua đã khiến những nhà kinh doanh phải giật mình nhận diện một “đầu ra” rất lớn ngay trên sân nhà mà chưa được tận dụng.
Nguyên nhân cuối cùng, cũng là quan trọng nhất, nằm ở chính kiểu sống của người Việt nói riêng và người châu Á nói chung: Người Mỹ sở dĩ phải chịu đựng hậu quả nặng nề là do họ tiêu dùng nhiều hơn những gì mình làm ra. Họ sinh hoạt bằng tiền đi vay. Nợ quốc gia của Mỹ hiện chiếm 85% GDP. Nếu tính cả nợ tư nhân, con số này lớn gấp 10 lần số của cải nước Mỹ có thể làm ra trong một năm. Nước Nhật cũng ở tình trạng tương tự khi giá trị nợ đã lên tới 159% GDP. Người Việt thì không như vậy: Biết tiết kiệm và biết để dành.
Với những nhân tố nêu trên, cùng với những biện pháp của Chính phủ, kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng dương 5,32% trong năm 2009. Công đầu trong những thành quả này thuộc về nhân dân và doanh nghiệp, những người không được hưởng lợi từ vốn kích cầu nhưng vẫn bươn trải để tồn tại và chèo lái con thuyền kinh tế đi lên.
Nhìn lại những gì Việt Nam đã làm trong cuộc khủng hoảng vừa qua, tôi cho rằng thiếu sót lớn nhất chính là việc chúng ta chưa tận dụng được thời cơ để tái cấu trúc nền kinh tế sau khủng hoảng trong khi những điều kiện của kinh tế thế giới đã thay đổi.
Thay đổi đầu tiên là việc siết chặt quản lý hệ thống ngân hàng, nâng cao trách nhiệm xã hội của họ. Thậm chí Chính phủ Mỹ còn đòi các ngân hàng phải hoàn lại các khoản Nhà nước đã tung ra cứu họ.
Thay đổi thứ hai là cơ cấu sản xuất của thế giới. Cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 chính là cơ sở để công nghệ thông tin đi lên. Cuộc khủng hoảng lần này là cơ hội cho các ngành năng lượng tái tạo, công nghệ thân thiện với môi trường.
Tìm hiểu gói kích cầu của Mỹ, của Trung Quốc, người ta thấy rõ sự đầu tư của những nước này cho năng lượng gió, năng lượng mặt trời… Gói kích cầu của Việt Nam chưa làm được điều này. Sau đận này khéo người ta trút hết công nghệ tiêu hao năng lượng và gây ô nhiễm môi trường sang ta chưa chẳng chơi!
Thay đổi lớn thứ ba là vị thế của các quốc gia, các châu lục thay đổi: Vai trò của Mỹ giảm xuống, vai trò của Trung Quốc tăng lên. Châu Âu đi xuống, châu Á đi lên… Đây là thay đổi mang tính thế kỷ, ta không thể không tính đến).
Thay đổi thứ tư là chủ nghĩa tự do thương mại có dấu hiệu chững lại, chủ nghĩa bảo hộ có dấu hiệu đi lên và chắc rằng ta sẽ chịu tác động.
Thay đổi cuối cùng là hệ thống các tổ chức tài chính, tiền tệ thế giới như Tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) … cùng phải cơ cấu lại. Vị trí đồng đôla giảm xuống, vị trí Nhân dân tệ lên…. Là thành viên của các tổ chức đó, đồng thời làm ăn kinh doanh trong thế giới này, ta không thể không tham gia vào quá trình ấy.
Đứng trước những thay đổi lớn này của thế giới, việc doanh nghiệp Việt có thích ứng được hay không chính là câu hỏi lớn đối với kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Vũ Khoan