1. Ngân hàng thương mại trong cuộc đua tăng lãi suất
Đợt cạnh tranh bằng lãi suất của các ngân hàng thương mại bùng nổ đầu tháng 4. Các nhà băng liên tục tung ra những chiêu thức phát hành tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu với lãi suất cực kỳ hấp dẫn. Thậm chí, nhiều đơn vị còn nâng lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên mức cao kỷ lục, trên 8%/năm. Mãi đến cuối tháng 8, cơn sốt mới dần hạ nhiệt, sau nhiều lần can thiệp của Ngân hàng Nhà nước và sự tác động của Hiệp hội Ngân hàng.
Sau 6 tháng lãi suất lên cao, toàn bộ hệ thống ngân hàng luôn dư thừa khoảng 10.000 tỷ đồng vốn ngắn hạn. Đó là chưa kể 20 tỷ đồng đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu chưa thể chuyển thành tiền mặt. Các nhà băng đã tự chặt chân mình khi ồ ạt huy động vốn mà không tính kỹ tới nhu cầu vay thực tế của khách hàng. Trong khi không cho vay được, họ lại phải chịu trả lãi cao cho những đồng vốn huy động từ dân chúng.
Được lợi trong cuộc cạnh tranh lãi suất chính là các ngân hàng nước ngoài. Sau thời gian dài bị hạn chế, đúng vào lúc cơn sốt hạ nhiệt thì họ lại được phép tăng tỷ lệ huy động vốn VND. Với mưu lược kinh doanh sẵn có, họ dễ dàng mua lại vốn rẻ từ các ngân hàng thương mại trong nước.
2. Cú sốc dệt may từ thị trường Mỹ
Từ 1/5, theo Hiệp định Dệt may Việt - Mỹ, xuất khẩu hàng may mặc sang Mỹ bắt đầu chịu sự quản lý bằng hạn ngạch với 1,7 tỷ USD dành cho năm 2003. Các nhà đàm phán Việt Nam cho rằng, những điều khoản đạt được trong Hiệp định này là một thắng lợi sau nhiều ngày thương thuyết cam go. Nhưng với doanh nghiệp, sau thời gian ồ ạt đầu tư nhà xưởng, máy móc để làm hàng cho một thị trường được xem là dễ tính và giàu tiềm năng, thì việc xuất khẩu theo hạn ngạch cũng có nghĩa là cánh cửa xuất khẩu vào Mỹ khép chặt. 38 chủng loại mặt hàng bị giới hạn lượng xuất là những sản phẩm dệt may có thế mạnh và thu về nhiều ngoại tệ cho Việt Nam.
Với các nhà quản lý xuất nhập khẩu, sự kiện này là một bài học đáng giá cho giới kinh doanh trong chiến lược đa dạng hoá thị trường, tìm kiếm đối tác mới và chung thủy với bạn hàng truyền thống.
3. Con cá basa chịu thua kiện tại Mỹ
3h sáng ngày 24/7, Ủy ban Hiệp thương quốc tế Mỹ (USITC) chấm dứt vụ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, basa filê đông lạnh bằng kết luận: con cá Việt Nam làm cả ngành công nghiệp sản xuất cá nheo Mỹ lao đao. Lệnh áp thuế chống bán phá giá với biên độ lên tới 36,84-63,88% do Bộ Thương mại nước này (DOC) ban hành sau đó nửa tháng đã phá tan niềm hy vọng của nông dân nuôi cá basa Việt Nam được thâm nhập và cạnh tranh tại Mỹ.
Đại diện phía Việt Nam, công ty Luật White & Cases, khẳng định, DOC đã đi ngược lại những tiền lệ mà chính họ đã đặt ra cho các vụ kiện tương tự trước đây. Chủ tịch Hội đồng thương mại Mỹ - Việt Virginia Foote cũng cho rằng, phía Mỹ phá vỡ nguyên tắc mà hai bên đã phải mất 5 năm trời đàm phán mới đạt được để đi đến ký kết Hiệp định thương mại song phương. Trên đà thắng thế này, người Mỹ đang tiếp tục vận dụng Luật chống bán phá giá để ngăn ngừa làn sóng tôm nhập khẩu. Việt Nam là nước xuất khẩu tôm lớn thứ hai vào Mỹ vì vậy chắc chắn sẽ không thoát khỏi danh sách các nước bị kiện. Ngư dân nước này đang chờ các ngày nghỉ lễ cuối năm trôi qua để chính thức nộp đơn khởi kiện.
4. Bài học từ tai họa tin đồn thất thiệt
Trưa 14/10, làn sóng rút tiền ồ ạt bắt đầu diễn ra tại Ngân hàng cổ phần Á Châu (ACB) sau khi có tin Tổng giám đốc ngân hàng này, ông Phạm Văn Thiệt, bỏ trốn. Chiều và đêm hôm đó, đích thân ông Thiệt đeo thẻ ghi rõ tên, cùng Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thúy đi từ chi nhánh này đến chi nhánh khác của ACB tại TP HCM để chứng tỏ tin đồn là thất thiệt, nhưng cũng không thể ngăn chặn nỗi sợ hãi của người dân. 3 ngày sau ACB mới hoạt động trở lại bình thường sau nhiều lần có sự cam kết và bảo đảm về mặt tài chính của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và UBND thành phố.
Sự kiện tương tự có thể sẽ tái diễn đối với các doanh nghiệp khác. Không lâu sau đó, hai mạng di động VinaPhone và MobiFone cùng bị tấn công bằng một loạt các tin nhắn tới khách hàng với nội dung không có thực là họ sẽ được tặng tiền nếu gửi tin nhắn tương tự đến các thuê bao khác... Bài học xử lý tin đồn được rút ra là: doanh nghiệp nên công khai hơn nữa thông tin tài chính và hoạt động của mình.
Với lượng vốn FDI đăng ký mới đạt 2,6 tỷ USD, cao nhất trong 5 năm qua, năm 2003 được coi là thắng lợi lớn đối với hoạt động thu hút vốn nước ngoài. Kết quả này nhờ vào việc môi trường kinh doanh được cải thiện rất nhanh, chính trị ổn định, Việt Nam ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản; thông qua bản báo cáo cuối cùng Sáng kiến chung Việt - Nhật, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư sửa đổi với Hàn Quốc; Chương trình hợp tác xúc tiến đầu với Singapore...
Nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam cũng nâng mức cam kết ODA năm 2004 lên cao chưa từng có trong 10 năm qua: 2,84 tỷ USD. Đây là bằng chứng cho thấy công cuộc đổi mới đang diễn ra đúng hướng, môi trường kinh tế đang hấp dẫn hơn trong mắt các công ty, tổ chức nước ngoài.
6. Được mùa trái phiếu công trình
Ngày 15/10, Chính phủ lần đầu tiên phát hành trái phiếu công trình. Nhiều chuyên gia cho rằng, ngành tài chính có tham vọng quá lớn khi đặt mục tiêu huy động tới 63.000 tỷ đồng giai đoạn 2003-2010. Nhiều năm qua, phần lớn các đợt phát hành trái phiếu để thu hút vốn cho các mục đích xã hội (như giáo dục) thường đạt được mức huy động chỉ vài nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên, chỉ trong 2 tháng đầu tiên, mục tiêu đặt ra là bán được 4.500 tỷ đồng trái phiếu bằng VND và USD (đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam phát hành trái phiếu ngoại tệ) đã đem lại kết quả đầy ngạc nhiên: thời gian huy động rút ngắn được 15 ngày; số tiền cũng vượt trên 500 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ mục tiêu của việc phát hành trái phiếu Chính phủ được đề ra cụ thể, hợp với lòng dân nên được hưởng ứng rộng rãi. Mức lãi suất trái phiếu khá cao, 8,5%/năm, cũng kích thích người dân chung vai với ngành tài chính. Thành công này còn là tiền đề tốt cho việc Việt Nam tham gia thị trường trái phiếu Chính phủ với các nước châu Á trong tương lai.
7. Vàng, USD biến động giá khôn lường
Không một chuyên gia nào có thể ngờ được, giá vàng từ khoảng 630.000 đồng/chỉ cuối năm 2002 đã đạt tới gần 800.000 đồng/chỉ trong những ngày đầu tháng 12. Suốt nhiều năm qua, giá vàng trong nước phụ thuộc chặt vào giá thế giới (hiện đã lên mức cao nhất trong 7 năm) vì phần lớn lượng vàng do các công ty kim loại quý kinh doanh được chế tác từ vàng thô, nhập khẩu từ nhiều nước (mỗi năm khoảng trên 20 tấn). Lần đầu tiên, Ngân hàng Nhà nước phải xuất USD dự trữ cho các công ty kinh doanh vàng tăng lượng nhập khẩu để bình ổn giá. Giá vàng biến động đã tác động rõ rệt nhất đến thị trường bất động sản trên cả nước do thói quen hầu hết các giao dịch được thực hiện bằng vàng.
Mỹ kim năm nay cũng đã xuống dốc thảm hại so với euro. Nếu năm 1999, giá euro vào khoảng 1,17 USD, sau đó tụt dần, có lúc chỉ còn 0,9 USD (cuối năm 2002), thì sang năm nay đã lên đến 1,22 USD trong tháng 12. Tại Việt Nam, cả năm USD tăng giá khoảng 2% (đúng như mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước), nhưng đã xảy ra tình trạng khác biệt giữa giá USD tự do và giá USD các ngân hàng niêm yết. Có thời điểm, mức chênh lệch lên đến 800 đồng/USD (đầu tháng 12, giá USD tự do lên đến 16.400 đồng, khi các ngân hàng niêm yết 15.600 đồng).
8. Lần đầu tiên trong 20 năm, người dân lại được tiêu tiền xu
Tái phát hành tiền kim khí, lần đầu tiên đưa chất liệu polymer vào in tiền, cho lưu hành mệnh giá lớn nhất từ trước tới nay, 500.000 đồng - mục đích của kế hoạch táo bạo này, theo Ngân hàng Nhà nước, là nhằm bổ sung cơ cấu mệnh giá VND trong lưu thông, đồng thời nâng cao chất lượng và khả năng chống tiền giả. Thống đốc Lê Đức Thuý cũng khẳng định, sẽ không xảy ra tình trạng phá giá đồng tiền hay lạm phát gia tăng ngoài tầm kiểm soát.
Những đồng tiền mới, gồm 2 loại polymer mệnh giá 50.000 và 500.000 đồng và 3 loại tiền xu mệnh giá 200, 1.000 và 5.000 đồng, đã ra mắt ngày 17/12 trong sự háo hức đón đợi của dân chúng. Người ta dường như quên đi quan ngại phá giá hay lạm phát, chỉ tò mò được nhìn tận mắt, sờ tận tay những tờ bạc bằng polymer, được nghe âm thanh kim khí của những đồng xu mới.
9. GDP tăng trưởng cao nhất trong 7 năm
Năm 2003 được giới phân tích đánh giá là thành công nhất trong giai đoạn từ 1997 (thời điểm nổ ra khủng hoảng tài chính châu Á) đến nay. Một loạt các mục tiêu như tốc độ tăng trưởng, thương mại, đầu tư, tài chính… đều đạt hoặc vượt kế hoạch. GDP cả năm ước tính tăng gần 7,3%, cao chưa từng có kể từ năm 1996.
Kết quả này nhờ vào sự kích thích tiêu dùng đúng hướng (do chương trình kích cầu chống giảm phát và thiểu phát từ năm 2000-2001 đã phát huy tác dụng ở tầm trung hạn); dịch vụ và công nghiệp tiếp tục chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ cấu GDP; và ngoại thương, đầu tư khởi sắc. Đặc biệt, năm qua, ngoại thương Việt Nam cũng được đánh giá là “được mùa” khi cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng vọt, lần lượt khoảng gần 20 và 24 tỷ USD (cùng tăng trên 20% so với năm 2002). Lạm phát (mức tăng giá tiêu dùng) tại Việt Nam năm nay duy trì ở mức 3%, trong tầm kiểm soát của Chính phủ.
Nếu tính đến những khó khăn khách quan như chiến tranh Iraq đã khiến thị trường xuất khẩu nông sản bị ảnh hưởng; nạn dịch SARS gây thương vong công nghiệp du lịch; biến động của thị trường kim loại quý và tiền tệ… thì có thể nhận định rằng GDP vẫn tăng nhanh là một thành công lớn của Chính phủ trong điều hành kinh tế.
K.D.