ADB đánh giá, bất chấp rất nhiều diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh trong khu vực, nửa đầu năm mức tăng GDP của Việt Nam đạt 6,9% là một thành công lớn. Điều này nhờ vào việc thị trường trong nước phát triển nhanh, chính sách tiền tệ và tài khóa vận hành tốt, và sự điều hành hợp lý của Chính phủ.
Theo các tác giả báo cáo, có hai điểm nổi bật đối với Việt Nam năm nay là mức thâm hụt ngân sách chỉ ở mức 4,8% và lạm phát khoảng 4% - đều là những con số lý tưởng đối với một nền kinh tế đang phát triển, và nằm trong khả năng kiểm soát được của Chính phủ. Bên cạnh đó là sự tăng trưởng khả quan của xuất khẩu, khoảng 10,5% trong năm 2003 và thâm hụt tài khoản vãng lai 6% - cho thấy nhu cầu mua sắm của người dân tăng cao.
Các tác giả cho rằng, năm nay và năm sau, khối ASEAN tăng trưởng lần lượt 3,9 và 4,9%. Tuy nhiên, sự thay đổi này còn phụ thuộc vào khả năng điều hành nền kinh tế của các chính phủ và các nỗ lực cải cách.
So với dự báo được ADB đưa ra từ tháng 4, tốc độ tăng GDP của Việt Nam trong hai năm 2003 và 2004 được giữ nguyên. Trong khi đó, Lào, Malaysia và Singapore với những nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế như lạm phát cao, cầu đầu tư và tiêu dùng giảm… đã bị hạ mức dự báo tăng trưởng (xem bảng dưới).
Tăng GDP (%) |
2002 |
2003 |
2004 | ||
|
|
Dự báo tháng 4 |
Cập nhật tháng 10 |
Dự báo tháng 4 |
Cập nhật tháng 10 |
ASEAN | 4,1 | 4 | 3,9 | 4,8 | 4,9 |
Cambodia | 5,5 | 5 | 5 | 5,5 | 5,5 |
Indonesia | 3,7 | 3,4 | 3,4 | 4 | 4 |
Lào | 5,9 | 6 | 5,5 | 6,5 | 6 |
Malaysia | 4,1 | 4,3 | 4,1 | 5,1 | 4,9 |
Myanmar | - | - | - | - | - |
Philippines | 4,4 | 4 | 4 | 4,5 | 4,5 |
Singapore | 2,2 | 2,3 | 0,5 | 4,2 | 4,5 |
Thái Lan | 5,3 | 5 | 6 | 5,5 | 6 |
Việt Nam | 6,4 | 6,9 | 6,9 | 7,1 | 7,1 |
Kim Minh