Trên thực tế, nguy cơ bị xiết chặt lượng xuất khẩu dệt may sang Mỹ đã được cảnh báo ngay khi hai bên đặt bút ký kết Hiệp định Thương mại song phương (BTA). Lúc đó, do Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO, hai bên đã quyết định sẽ tiến hành đàm phán ký riêng một hiệp định về hạn ngạch nhập khẩu dệt may. Bước sang năm 2001, trước sức ép của các nhà sản xuất trong nước, chính quyền của ông Bush đã đề cập chính thức tới việc này. Tuy nhiên, do sức hấp dẫn quá lớn của thị trường nhập khẩu dệt may hàng chục tỷ USD này, nhiều công ty Việt Nam đã tập trung đầu tư mở rộng dây chuyền, lập mới nhà xưởng chỉ để làm hàng sang Mỹ. Các nhà sản xuất lớn như Việt Tiến, May 10 hay May Thăng Long đã bỏ ra hàng chục tỷ đồng cho mục đích này. Lượng hàng dệt may của Việt Nam xuất sang Mỹ, nhờ đó, liên tục tăng mạnh, tính chung cả năm 2002 đã tăng gấp hơn 20 lần so với 2001.
Cũng vì quá tập trung làm hàng đi Mỹ, không ít đơn vị đã bỏ qua mối cũ. Bạn hàng truyền thống EU ít dần, thị phần tại Nhật Bản thu hẹp dần. Doanh nghiệp cũng ít quan tâm tới việc mở thêm thị trường mới. Lúc đó, mối lo này dường như mờ nhạt bên cạnh niềm vui tăng trưởng kim ngạch xuất sang Mỹ.
Lịch trình đàm phán Hiệp định Dệt may Việt Mỹ 12/2001: Phía Mỹ chính thức đề nghị tiến hành đàm phán. 19/2/2003: Vòng đàm phán thứ I tại Hà Nội. 9/4/2003: Vòng đàm phán thứ II tại Washington. 16/4/2003: Ký tắt hiệp định. 17/7/2003: Ký chính thức. |
Ngay cả khi hai bên rậm rịch chuẩn bị đàm phán (cuối năm 2002), doanh nghiệp vẫn chưa thức tỉnh. Sau nhiều ngày thương thuyết căng thẳng, bản Hiệp định được ký tắt tại Mỹ vào 26/4/2003 với mức hạn ngạch dành cho Việt Nam là 1,7 tỷ USD. Đến lúc này, các đơn vị bắt đầu lo lắng tới chuyện thiếu hạn ngạch để thực hiện các hợp đồng đã ký kết. Nhân lúc Hiệp định chưa có hiệu lực và thời gian chưa cấp visa, một số công ty tăng cường năng lực sản xuất, thậm chí có nơi làm vượt công suất để bằng mọi cách giải phóng đơn hàng.
“Doanh nghiệp đã hiểu nhầm rằng lượng xuất trong 4 tháng đầu năm sẽ không bị tính vào hạn ngạch tiêu chuẩn của cả năm. Trên thực tế, Hiệp định Dệt may song phương có hiệu lực từ 1/5, nhưng lượng hạn ngạch dành cho 8 tháng cuối năm chỉ bằng 2/3 tiêu chuẩn cả năm, tức khoảng 1,13 tỷ USD mà thôi. Nếu trừ đi phần đã xuất khẩu, lượng hạn ngạch còn lại tính đến đầu tháng 6 chỉ khoảng 600 triệu USD”, Vụ phó Xuất nhập khẩu (Bộ Thương mại) Lê Văn Thắng giải thích. Ông cho biết thêm, đến hết tháng 6, một số Cat đã hết hạn ngạch của cả năm. Nhiều chủng loại khác chỉ đủ cho doanh nghiệp xuất khẩu hết tháng 8.
Ngay khi Bộ Thương mại thông báo giao hạn ngạch, không ít doanh nghiệp chết đứng bởi tiêu chuẩn được nhận quá ít. Khoảng 80% lượng quota của cả năm đã được phân bổ ngay đợt I, đầu tháng 6/2003. Nhưng số này chỉ đủ để làm hàng trong nửa cuối tháng 6. Trường hợp điển hình như May Đức Giang, lượng hạn ngạch nhận được chỉ đủ xài trong 1 ngày. Hay May 10, ở Cat 347-348, còn bị âm do đã xuất nhiều trong tháng 5. Một lần nữa, Bộ Thương mại cùng Hiệp hội Dệt may lại lên tiếng đề nghị doanh nghiệp tìm cách chuyển hưởng sang làm hàng thuộc các Cat phi hạn ngạch, quay về với thị trường truyền thống EU, Nhật Bản hay mở thêm thị trường mới.
Công việc phân bổ hạn ngạch năm 2003 hoàn tất vào đầu tháng 8. Đến lúc này, hầu như các doanh nghiệp đã không còn quota để giao hàng. Các chính sách linh hoạt của Bộ Thương mại như cho phép trao đổi, ứng trước hạn ngạch cũng chỉ gỡ được một phần khó khăn của doanh nghiệp. Các công ty dệt may cho rằng, chính cách phân bổ không rõ ràng của liên bộ đã gây ra tình trạng thừa hàng, thiếu hạn ngạch, khiến doanh nghiệp lâm vào cảnh khốn cùng. Bộ Thương mại đã phải có công văn giải trình về việc này, song cũng không quên nhắc lại cảnh báo của mình trước đây, rằng không nên quá tập trung vào Mỹ mà bỏ qua các thị trường khác.
Trên thực tế, theo các chuyên gia, việc doanh nghiệp chỉ thiên về thị trường Mỹ cũng dễ hiểu bởi nơi đây được xem là thị trường đầy tiềm năng, dễ tính. Trong khi đó, các hợp đồng sang EU thì cạn dần vì đơn giá cao, thị trường Nhật lại khó tính. Tuy nhiên, theo ông Lê Văn Thắng, những khó khăn đó không thể phủ nhận được bài học về đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá đối tác. Có thể lấy trường hợp Công ty Dệt may Hà Nội (Hanosimex) để minh chứng. Tổng giám đốc Nguyễn Khánh Sơn cho VnExpress biết, việc Mỹ áp dụng hạn ngạch không ảnh hưởng nhiều tới tình hình xuất khẩu của công ty (Hanosimex đã bắt đầu làm ăn với thị trường này từ năm 1999). Kim ngạch xuất khẩu của Hanosimex năm naydự kiến đạt khoảng 27 triệu USD, tăng 4 triệu USD so với năm ngoái. Riêng sang EU, sẽ vào khoảng 1,5 triệu USD, không thay đổi nhiều so với 2002.
Thống kê lượng xuất khẩu dệt may sang Mỹ qua các năm (đơn vị tính: triệu USD):
Thanh Thủy