Nhiều người đang lẫn lộn khái niệm vùng cước giữa các loại dịch vụ viễn thông khác nhau. |
Cụ thể, vùng 1 từ Quảng Bình trở ra phía Bắc, vùng 3 từ Quảng Trị vào đến Đăk Lăk, Khánh Hòa, vùng 2 là các tỉnh còn lại. Cuộc liên lạc nằm trong mỗi vùng thì tính cước nội vùng, giữa vùng 1 và 2 áp dụng cước cách vùng.
Theo các quy định hiện hành của Tổng cục Bưu điện về vùng cước các dịch vụ viễn thông, hiện nay có 4 dịch vụ cơ bản được quy định vùng cước, bao gồm: điện thoại đường dài trong nước truyền thống, điện thoại quốc tế truyền thống, điện thoại di động và mới đây là điện thoại đường dài IP trong nước (điện thọai IP quốc tế không quy định vùng cước).
Điện thoại đường dài liên tỉnh truyền thống được quy định là 8 vùng cước, từ vùng 1 có cự ly liên lạc từ 0 đến 20 km cho đến vùng 8 từ trên 1.800 km. Cuộc gọi có cự ly liên lạc thuộc vùng nào thì áp dụng mức cước của vùng đó. Như vậy, nguyên tắc tính cước của dịch vụ này là cự ly liên lạc.
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như tránh sự hiểu nhầm giữa khách hàng với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, Tổng cục Bưu điện đã ban hành bảng "ma trận" vùng cước từ giữa tháng 9 năm ngoái. Khách hàng gọi điện thoại đường dài chỉ việc đối chiếu vào bảng "ma trận" này là có thể biết chính xác ngay cuộc liên lạc của mình thuộc vùng cước nào và sẽ phải trả cước áp dụng cho vùng đó. Ví dụ, khách hàng gọi từ Hải Dương tới Yên Bái, đối chiếu với bảng này, cuộc gọi thuộc vùng 8.
Đối với điện thoại đường dài quốc tế truyền thống, có 7 vùng cước được quy định căn cứ trên nguyên tắc cự ly cuộc đàm thoại là chính.
Còn đối với điện thoại đường đài IP trong nước, nhiều người tưởng rằng "cước dịch vụ điện thọai đường dài IP trong nước cũng được chia làm 3 vùng cước như điện thoại di động", nhưng thực ra vùng cước của điện thoại đường dài IP trong nước khác với vùng cước của điện thoại di động ở nguyên tắc tính cước là cự ly liên lạc.
Cụ thể, cước liên lạc IP chia làm 3 vùng theo nguyên tắc: vùng 1 có cự ly từ 400 km trở xuống, vùng 2 từ trên 400 đến 1.200 km, vùng 3 từ trên 1.200 km. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn, Tổng cục Bưu điện cũng ban hành bảng "ma trận" vùng cước điện thoại đường dài IP trong nước. Theo đó, khách hàng gọi từ Hải Phòng đến An Giang sẽ trả cước vùng 3, đến Bình Định là cước vùng 2 và đến Hà Nội là cước vùng 1.
Như vậy, vùng cước áp cho mỗi dịch vụ là khác nhau. Nhưng cũng chính sự khác nhau này làm cho vấn đề trở nên phức tạp, rắc rối và dẫn đến bất cập trong quản lý các dịch vụ viễn thông. Việc quy định quá nhiều vùng cước cho dịch vụ điện thoại đường dài truyền thống (tuy được căn cứ trên cự ly đàm thoại ) đến nay đã làm cho mức cước vùng 1 thấp hơn đàm thoại nội hạt tại điểm công cộng, thấp hơn cả đường dài nội tỉnh, trong khi cước vùng 8 lại cao hơn cước di động cách vùng.
Việc quy định vùng cước của điện thọai di động căn cứ vào địa giới hành chính cũng làm cho quyền lợi của khách hàng không được đảm bảo. Chẳng hạn như, gọi điện thoại di động từ Quảng Bình đi Lạng Sơn, tuy cự ly rất xa nhưng chỉ phải trả cước di động nội vùng; còn gọi sang Quảng Trị, cự ly gần nhưng vẫn phải trả cước cách vùng.
Để xóa bỏ những bất hợp lý này, vài tháng tới, Tổng cục Bưu điện có khả năng sẽ điều chỉnh vùng cước của điện thoại đường dài truyền thống chỉ còn lại 3 vùng cước. Đối với điện thoại di động, cuộc liên lạc giữa 2 tỉnh có chung đường ranh giới nhưng không cùng thuộc một vùng cước sẽ chỉ phải trả cước nội vùng, tương tự như sự điều chỉnh của một số nước đã từng làm.
Thanh Niên