Các doanh nghiệp đang cạn kiệt quota đi Mỹ. Ảnh: Anh Tuấn |
Theo Bộ Thương mại, đây là mặt hàng mang tính chuyên ngành cao, nên chỉ ưu tiên cho các đơn vị chuyên sản xuất sơ mi, đã được giao và thực hiện tốt chủng loại này. 20 doanh nghiệp nói trên có tổng thực hiện chiếm 57% của cả nước. Bộ khuyến cáo, quota giao theo tiêu chuẩn này chỉ để trực tiếp xuất khẩu, doanh nghiệp không được chuyển đổi, không cho vay.
Nguyên tắc phân bổ được xây dựng dựa trên số thiết bị và số hàng thuộc Cat 340/360 mà doanh nghiệp đã xuất đi đến hết ngày 10/6. Cụ thể như sau:
Số thiết bị |
Đã thực hiện đến 10/6 |
Số lượng bổ sung |
Trên 1.500 |
> 20.000 |
7.000 |
Từ 10.000 đến 20.000 |
5.000 | |
< 10.000 |
4.000 | |
Dưới 1.500 |
> 10.000 |
3.000 |
< 10.000 |
2.000 |
Vào lúc này, Liên bộ Thương mại và Công nghiệp đang làm việc với Hiệp hội Dệt may để thống nhất dự thảo quy chế phân bổ quota cho năm 2005. Dự kiến, quy chế chính thức sẽ có ngay trong tháng 7 này, sớm hơn 1 tháng so với năm ngoái, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động nhận đơn hàng cho năm sau.
Theo các chuyên gia, tình hình xuất khẩu dệt may 6 tháng đầu năm cũng như nửa cuối năm gặp nhiều khó khăn về hạn ngạch, đặc biệt là thị trường Mỹ. Vì vậy, sẽ khó có thể đạt mục tiêu đề ra là 4,25 tỷ USD cho cả năm. Bộ Thương mại ước tính, xuất khẩu dệt may tháng 6 đạt 400 triệu USD, 6 tháng đầu năm đạt khoảng gần 2 tỷ USD.
Về cơ cấu thị trường những tháng đầu năm 2004 vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định. Tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Mỹ tiếp tục tăng, vào thị trường EU tương đối ổn định và các thị trường khác không có gì biến động lớn. Kể từ 1/5, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang 10 nước thành viên mới của EU được điều chỉnh theo các chính sách nhập khẩu hạn ngạch chung về dệt may của EU. Đối với thị trường Mỹ, xuất khẩu trở nên khó khăn do việc đàm phán tăng thêm và vay hạn ngạch năm 2005 không đơn giản.
Bộ Thương mại cho biết để khắc phục khó khăn, các doanh nghiệp xuất khẩu đã tăng cường và chủ động tìm kiếm khách hàng và mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch. Riêng xuất sang Nhật Bản tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 250 triệu sản phẩm trong 6 tháng. Các thị trường phi hạn ngạch khác như Hàn Quốc, Đài Loan… cũng được đẩy mạnh xuất khẩu trong 6 tháng, ước đạt 330 triệu USD. Đặc biệt trong khi hạn ngạch vào thị trường Mỹ không đủ đáp ứng nhu cầu thì các doanh nghiệp đã chủ động tìm cách xuất khẩu các cat phi hạn ngạch vào thị trường này, trong 6 tháng ước đạt 320 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái.
Văn Thanh