- Bà đánh giá thế nào về kết quả cổ phần hóa thời gian qua?
- Xét từ góc độ các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa, tôi cho rằng kết quả là tích cực. Hồi tháng 7, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương tiến hành điều tra 405 trong số 425 doanh nghiệp được cổ phần hóa trước năm 2000 (nghĩa là có ít nhất 2 năm hoạt động sau cổ phần hóa). Kết quả cho thấy, 90% hoạt động tốt hơn trước (về doanh số, lương người lao động, thu nhập doanh nghiệp...), trong đó khoảng một nửa có thay đổi tích cực về thị trường và công nghệ. Còn đứng về bình diện chung thì tỷ lệ DNNN được chuyển đổi so với mục tiêu đề ra ban đầu quá thấp. Cổ phần hóa như vậy chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
- Tại sao đến nay vẫn chưa đạt được mục đích chính của cổ phần hóa, là huy động vốn, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh từ bên ngoài?
Chính sách cổ phần hóa bắt đầu từ tháng 6/1992, đến tháng 6/2002 đã chuyển đổi được 828 DNNN sang công ty cổ phần. Năm 1999, có nhiều doanh nghiệp được cổ phần hóa nhất (249), nhưng về sau giảm dần - năm 2000: 212, 2001: 198, 6 tháng đầu năm nay: 53. |
- Mục tiêu chúng ta đặt ra ban đầu quá nhiều, trong đó có những mặt mâu thuẫn nhau, như đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động trong khi vẫn phải cơ cấu lại doanh nghiệp để có động lực phát triển, hay vừa có sự chi phối của Nhà nước lại vừa có vốn huy động từ bên ngoài... Nhiều mục tiêu mâu thuẫn như vậy thì rất khó dung hòa và thường là không đạt được một cái gì cụ thể cả. Trong vấn đề huy động vốn thì đúng là còn hạn chế, bởi thực tế gọi là cổ phần hóa nhưng có bán ra ngoài được bao nhiêu đâu, và người ngoài muốn cũng chẳng mua được.
Về đổi mới quản lý, nhìn về con số, thấy tới 70% cán bộ lãnh đạo hiện nay của các đơn vị vẫn là người cũ lên, nghĩa là chưa huy động được những người bên ngoài vào quản lý. Nhưng cũng cần hiểu là một số đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới doanh nghiệp. Tôi tiếp xúc với nhiều giám đốc, thấy trong họ luôn có 2 con người: con người nhà nước - tận dụng mọi ưu đãi mà Nhà nước dành cho DNNN; và con người thương trường - năng động, lăn xả để doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh. Sau khi cổ phần hóa, mặt thứ hai trong họ phát huy, chèo lái đưa đơn vị mình phát triển.
- Có người nhận xét, cách cổ phần hóa trong nội bộ ở ta chẳng khác gì hợp tác hóa, tức huy động vốn của chính những người lao động trong doanh nghiệp. Bà nghĩ sao?
- Tôi nghĩ, tiến trình cổ phần hóa rất vất vả vừa qua là để thuyết phục người lao động chấp nhận sự thay đổi. Và như vậy, việc bán cổ phiếu trong nội bộ doanh nghiệp có thể chấp nhận được. Nhưng tương lai, muốn đạt được các mục tiêu thu hút vốn ngoài xã hội, mang sắc thái quản lý mới vào doanh nghiệp thì cần mở rộng ra bên ngoài.
- Vậy quy định ở Nghị định 64 - nới rộng tỷ lệ góp vốn cổ phần bên ngoài lên 30% - đã tạo điều kiện như thế nào cho tư nhân tham gia quá trình cổ phần hóa?
- Ngay từ khi nghiên cứu ban hành 64 thay thế Nghị định 44, chúng tôi đã đề nghị phải định ra những tiêu chí rõ ràng, mạnh mẽ hơn, buộc các doanh nghiệp khi cổ phần hóa phải dành một phần thích đáng ra bên ngoài. Nhưng cuối cùng 64 không làm được, bởi chỉ quy định là sau khi bán nội bộ, nếu còn thì bán ra ngoài tối thiểu 30% phần còn lại. Thực tế, ở các đơn vị cổ phần hóa, người ta bán hết trong nội bộ rồi, còn đâu mà bán ra ngoài? Theo tôi, 800 doanh nghiệp cổ phần hóa trong 10 năm qua vẫn chỉ là thí điểm. Để chuyển đổi tốt 1.300 doanh nghiệp tới đây, cần mở rộng mạnh hơn. Lý tưởng nhất là quy định dứt khoát dành 30% cổ phần cho nhà đầu tư bên ngoài.
- Còn yêu cầu đảm bảo các tiêu chí lao động - xã hội trong cổ phần hóa?
- Không chỉ Việt Nam mà cả ngay các nước phát triển, khi cổ phần hóa, tư nhân hóa, cái mà họ lo nhất là vấn đề thất nghiệp và việc làm. Vì vậy, muốn tạo tâm lý ủng hộ từ phía người lao động thì phải có chính sách tốt đối với họ. Song không thể đặt yêu cầu này lên các mục tiêu khác. Tôi cho rằng, mục tiêu chính của cổ phần hóa phải là huy động vốn và kinh nghiệm bên ngoài, tạo động lực phát triển cho doanh nghiệp.
Nghĩa Nhân thực hiện