Vàng nguyên liệu nhập khẩu vẫn chiếm 90% nhu cầu trong nước. |
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước chỉ cấp quota nhập vàng nguyên liệu và cho phép xuất vàng dưới dạng nữ trang. Một số đơn vị từng kiến nghị xin quota để xuất nguyên liệu song đã bị khước từ với lý do thị trường trong nước luôn lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu (vàng nhập khẩu đáp ứng tới 90% nhu cầu trong nước). Hơn nữa, giá vàng trong nước luôn luôn cao hơn giá thế giới nên quyết định cho xuất đi cũng không có tác dụng gì.
Tại Hội thảo Phương thức kinh doanh vàng quốc tế do SJC tổ chức ở TP HCM tuần qua, một số ý kiến cho rằng giới kinh doanh Việt Nam cần được tham gia thị trường quốc tế như những nhà buôn vàng thực sự, có nhập và có xuất khẩu. Đồng thời, các đơn vị đề nghị được phép triển khai các nghiệp vụ options (quyền chọn), forward (mua bán tương lai) và swap (hoán đổi) để giảm thiểu rủi ro trong xuất cũng như nhập vàng.
Nghiệp vụ options cho phép bên mua ký hợp đồng giao hàng tương lai với đối tác ở một mức giá nhất định. Đến thời điểm nhận hàng, nếu giá vàng lên cao hơn, bên mua vẫn có quyền trả đúng bằng mức giá đã ký. Ngược lại, nếu giá xuống thấp, bên mua có thể huỷ hợp đồng và mua theo giá thị trường. Khi ký hợp đồng quyền chọn, bên mua phải trả một khoản phí nhất định cho bên bán, phụ thuộc vào mức độ biến động của thị trường và thời hạn hợp đồng. |
Vụ trưởng Quản lý Ngoại hối (Ngân hàng Nhà nước) Trương Văn Phước cũng thừa nhận những nghiệp vụ đó không chỉ giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro về giá mà còn tạo cơ hội cho họ kiếm lời một cách chính đáng trong hoạt động kinh doanh. Theo ông, doanh nghiệp và khối ngân hàng thương mại vẫn đang nhập hàng từ thị trường giao ngay chứ chưa được phép tận dụng các nghiệp vụ đó, chính vì vậy Việt Nam chưa có một đơn vị nào tham gia thị trường thế giới như một nhà buôn vàng thực sự. Ông tiết lộ những nghiệp vụ đó có thể được thử nghiệm ngay tại Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước sẵn lòng chấp thuận đề nghị của doanh nghiệp khi tham gia thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, các chuyên gia khuyến cáo options, forward hay swap chỉ thuận tiện cho các ngân hàng hoặc những đơn vị kinh doanh lớn, còn những doanh nghiệp nhỏ rất khó tham gia. "Doanh nghiệp Việt Nam vẫn áp dụng phương thức kinh doanh vàng truyền thống như mua bán trao tay, chốt giá, chưa quen với kiểu nhập về xuất đi bằng các nghiệp vụ trên qua mạng. Nếu không có kinh nghiệm, những hình thức kinh doanh đó cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro", đại diện một công ty kinh doanh vàng bạc trao đổi với VnExpress.
Công ty Vàng bạc Ngân hàng Nông nghiệp cũng chưa mấy mặn mà với những nghiệp vụ kinh doanh mới cũng như kế hoạch cho phép xuất khẩu vàng. "Hiện chúng tôi có đầy đủ chức năng liên quan tới kinh doanh vàng, kể cả nhập và xuất. Tuy nhiên, do những khó khăn về thủ tục, cơ chế giá và kể cả thời gian giao nhận hàng, công ty chúng tôi chưa bao giờ xuất nguyên liệu mà chủ yếu chỉ xuất nữ trang", Trưởng phòng Kinh doanh Nguyễn Thế Lựu tâm sự.
Trước mắt, hai kho ngoại quan (một ở Hà Nội và một ở TP HCM) sẽ được mở ngay trong quý này hoặc quý sau cho phép các nhà kinh doanh vàng nhập khẩu vàng nhanh hơn và giảm thiểu được những rủi ro về giá. |
Băn khoăn lớn nhất của ông Lựu đó không phải là chuyện giá cả. "Đành rằng, với vàng nguyên liệu, hầu như giá quốc tế đều thấp hơn giá trong nước nên chẳng ai dại gì mà xuất đi những lúc như vậy. Nhưng vào một số thời điểm nhất định, vàng trong nước cao hơn thế giới thì lại chẳng tận dụng được cơ hội bởi Việt Nam chưa có hẳn quy chế cho việc xuất nguyên liệu. Hơn nữa, sau thời gian thực hiện các thủ tục để nhập về rồi xuất đi thì cơ hội đó đã qua mất, có khi giá lại diễn biến theo hướng ngược lại", ông nói thêm.
Cũng theo ông Lựu, Việt Nam chưa có kho ngoại quan vàng cũng là điều hạn chế các đơn vị kinh doanh trong việc ứng phó kịp thời với những biến động giá rất nhanh của thế giới cũng như trong nước. Bản thân các nhà buôn lớn trên thế giới thường ký kết hợp đồng mua bán tại các sàn giao dịch quốc tế, ít khi mua bán lòng vòng qua một nước thứ ba. "Khi giá vàng trong nước thấp hơn thế giới, xuất khẩu đi đâu, cho ai và bằng con đường nào cũng là vấn đề phải tính kỹ. Kể cả các nghiệp vụ mới chúng tôi cũng được phép áp dụng nhưng triển khai từng bước một chứ không áp dụng ngay lập tức", ông nói.
Theo thống kê của Công ty Vàng bạc Đá quý TP HCM (SJC), trong năm 2003, giá vàng tại Việt Nam đã tăng hơn 26,6%, mức kỷ lục từ năm 1991 đến nay. Riêng với vàng SJC, nhu cầu tăng gấp 2,15 lần so năm trước. Trong quý 1/2004, giá đã chạm ngưỡng 810.000 đồng/chỉ nhưng nhu cầu vàng SJC tiếp tục tăng cao gấp 3,2 lần so cùng kỳ.
Song Linh