Doanh nghiệp Việt Nam chưa chuẩn bị đầy đủ cho hội nhập. |
Hiệp định đa sợi (MFA) được ký kết năm 1974, với việc thiết lập hệ thống hạn ngạch khắt khe của các nước nhập khẩu. Xu thế toàn cầu hóa và tự do thương mại trong Vòng đàm phán Uruguay đã đưa đến việc ký kết hiệp định Dệt may (ATC) giữa các nước thành viên với việc loại bỏ dần hạn ngạch từ 1/1/1995 và tiến tới loại bỏ hoàn toàn vào 31/12/2004. |
Thương mại dệt may đang tiến gần đến thời điểm 1/1/2005, cột mốc quan trọng đánh dấu sự chấm dứt chế độ hạn ngạch kéo dài suốt 30 năm kể từ 1974 với Hiệp định hàng đa sợi (MFA) và sự bắt đầu thời kỳ mới, tự do hóa thương mại dệt may. Các chuyên gia nhận định, cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực này sau 2004 cũng sẽ khốc liệt hơn và toàn diện hơn. Xuất khẩu của nhiều nước sẽ suy giảm, nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá sản.
"Nếu như sự sẵn có của hạn ngạch trong hiện tại là lý do chính của việc đặt mua hàng thì sau 2004, yếu tố quyết định chính là tốc độ, giá cả và sự năng động của nhà sản xuất", Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam Lê Quốc Ân khẳng định. Cũng theo ông Ân, xu thế này sẽ buộc các nhà sản xuất phải chuyên môn hóa cao, tập trung vào một số mặt hàng thực sự có thế mạnh sống còn. Các nhà nhập khẩu, thay vì phải nhập hàng từ nhiều nước, sẽ chỉ tập trung vào một số quốc gia nhất định. "Và như vậy, nguồn cung cấp hàng dệt may sẽ bị thu hẹp, tập trung vào một số nước có lợi thế về nguồn nguyên liệu, lao động, chi phí, đặc biệt đã là thành viên WTO và không chịu khống chế hạn ngạch. Một số nước thành viên vốn sẵn có về sản xuất hàng dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan… có nhiều cơ hội hơn để chiếm lĩnh mạnh mẽ thị phần quốc tế", ông nhận định.
Để chuẩn bị cho giai đoạn hậu hạn ngạch, từ 1998, Trung Quốc đã tiến hành nhiều chính sách cải cách để phát triển ngành dệt may như mạnh dạn tư nhân hóa, cho phá sản các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ mới. Chính phủ cũng tiến hành hỗ trợ nhiều mặt. Ví dụ trong năm 98-99, trợ giá cho mỗi kg bông là 0,60 USD, giá bông lúc đó khoảng 1,2 USD. Ngoài ra, hỗ trợ cho hàng xuất khẩu thông qua tỷ giá, cước phí vận tải. |
Trao đổi với VnExpress, Vụ phó Xuất nhập khẩu (Bộ Thương mại)Lê Văn Thắng cho rằng, lợi thế lớn nhất của Trung Quốc là có nguồn nguyên liệu rất dồi dào, các chính sách trợ giúp của nhà nước rất lớn giúp hạ thấp giá thành. Trong khi đó, mạng lưới của người Hoa ở nước ngoài để tiêu thụ mặt hàng này lại rộng khắp. Tuy nhiên, theo ông Thắng, đối thủ đáng gờm không chỉ có Trung Quốc. "Các nước phát triển, vốn là những cường quốc lớn về dệt may như Italy, Pháp, Mỹ họ cũng là những chiến binh mạnh mẽ trên thị trường thế giới thời hậu hạn ngạch. Bởi về nguyên tắc, cùng với tiến trình bãi bỏ quota, các nước cũng yêu cầu phải dỡ bỏ các biện pháp phi quan thuế. Nước chậm phát triển không còn được áp dụng các hàng rào này nữa để ngăn hàng nhập khẩu", ông nhấn mạnh.
Sự cạnh tranh đó, theo ông Thắng, không đơn giản chỉ là các nước đang phát triển cạnh tranh với nhau trên thị trường các nước phát triển mà là sự cạnh tranh của mọi cường quốc dệt may trên thị trường quốc tế. "Và phần thắng chắc chắn sẽ thuộc về những người có tiềm lực về công nghệ, nguyên phụ liệu, nhân công và giao thông vận tải thuận lợi cho việc chuyên chở hàng dệt may vốn có khối lượng lớn và cồng kềnh", ông Thắng khẳng định.
Điều quan tâm lớn nhất của doanh nghiệp trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài lúc này là liệu đến năm 2005, Việt Nam đã là thành viên WTO hay chưa. Theo ông Lê Quốc Ân, nếu vẫn đứng ngoài tổ chức thương mại quan trọng này, hàng dệt may Việt Nam sẽ mất hẳn sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bởi lúc đó, các nước sẽ được xuất khẩu tự do còn Việt Nam vẫn đang bị áp hạn ngạch.
Trên thực tế, dệt may Việt Nam vốn được xem là một ngành công nghiệp gia công. Tốc độ tăng trưởng thời gian qua tuy cao nhưng lợi nhuận thực tế không được bao nhiêu. Hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng đối đầu với những thách thức trong giai đoạn tự do cạnh tranh toàn cầu sắp tới. "Nếu không có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực thì có nguy cơ sẽ thua ngay trên sân nhà", ông Ân lo ngại.
"Xuất khẩu dệt may của ta có may mắn là sẽ đặt chân vào ngưỡng 4 tỷ USD. Điều đó không chỉ phản ánh năng lực sản xuất mà còn chứng tỏ ta đã có một thị phần khá vững chắc, cũng có nghĩa là có một lượng bạn hàng lớn. Nếu giữ được chân họ, nỗi lo thời hậu hạn ngạch sẽ không lớn lắm", ông Thắng phân tích. Muốn làm được điều đó, theo ông Thắng, doanh nghiệp phải tăng cường khâu quản lý công nghệ giúp giảm chi phí sản xuất. Đồng thời, phải đảm bảo giữ chữ tín, thực hiện đầy đủ các cam kết về thời hạn giao hàng, chất lượng hàng hóa.
Ông Thắng khuyến cáo, điều quan trọng nhất với các doanh nghiệp là phải bám chắc thị trường mà mình đang có điều kiện thâm nhập ngay từ bây giờ, nhất là những thị trường có hạn ngạch. "Vì các thị trường này vào dễ dàng hơn. Hạn ngạch đã được đàm phán ở cấp Chính phủ. Nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải chiếm được thị phần trước khi thế giới bãi bỏ hàng rào này", ông nói.
Theo ông Thắng, khó khăn với ngành dệt may sẽ giảm bớt khi đến 2005, Việt Nam đã là thành viên WTO. "Các nhà đầu tư rất muốn biết liệu đến lúc đó, các nước có bãi bỏ hạn ngạch cho ta hay không. Vì vậy, những thông tin về tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam cần được công bố rộng rãi ngay từ bây giờ để họ hiểu và yên tâm đầu tư lâu dài", ông đề nghị.
Theo ông Ân, để có thể chủ động và giành được thành công trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần nhạy bén, sáng tạo, xây dựng chiến lượng thích hợp. Việc bãi bỏ hạn ngạch sẽ khiến quan hệt doanh nghiệp khách hàng thay đổi, vì vậy, cần chủ động khai thác và phát triển quan hệ với các đối tác để tạo dựng quan hệ đối tác kinh doanh. Việc áp dụng triệt để công cụ thương mại điện tử cũng có tác dụng tích cực trong việc duy trì và phát triển quan hệ hợp tác. Mặt khác, cần tích cực xây dựng, tổ chức và xâm nhập mạng lưới bán lẻ ngay tại thị trường nội địa và nước ngoài.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu của dệt may Việt Nam:
Đơn vị: nghìn USD
Nguồn: Bộ Thương mại Việt Nam
|
Mỹ |
EU |
Nhật Bản |
Các thị trường khác |
2003 |
2.000.000 |
550.000 |
550.000 |
500.000 |
2004 |
2.000.000 |
900.000 |
550.000 |
600.000 |
Song Linh