Bộ trưởng Võ Hồng Phúc. |
Báo cáo của Chính phủ cho biết đã xem xét 5 phương án quy hoạch bậc thang sông Đà. Trong đó sơ đồ 2 bậc thang (Hòa Bình 115 m và Sơn La cao 265 m) có hiệu ích điện năng, cấp nước và chống lũ cao nhất, nhưng lại không đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình, hạ du và thủ đô Hà Nội. Phương án 3 bậc Sơn La nhỏ (mực nước dâng bình thường 180-200m) đáp ứng các yêu cầu an toàn, số dân di dời ít, nhưng hiệu quả tài chính kém do dung tích hồ chứa nhỏ, giảm đáng kể về năng lượng. Phương án sơ đồ 4 bậc và phương án 4-5 bậc thang (được điều tra bổ sung theo yêu cầu của Quốc hội hồi tháng 6/2001) có ưu điểm giảm tối thiểu di dân, ổn định kinh tế xã hội Tây Bắc, nhưng hiệu ích thấp, các điểm bậc thi công địa chất xấu.
Nhà máy thủy điện Sơn La 215 m |
Phương án thứ năm, 3 bậc thang (Sơn La - Lai Châu - Hòa Bình, giống phương án thứ tư) với quy mô Sơn La thấp (210-215 m), cho hiệu ích kinh tế năng lượng, chống lũ, điều tiết nước cao hơn các phương án trên (chỉ thấp hơn Sơn La 265 m), bảo đảm an toàn kể cả trường hợp sự cố vỡ đập Sơn La, số dân phải tái định cư giảm đáng kể so với Sơn La cao. Với các đánh giá trên, Chính phủ lựa chọn phương án năm.
Về địa điểm công trình, ở bậc thang Sơn La, Chính phủ đã xem xét kết quả khảo sát 2 tuyến Pa Vinh II (tuyến trên) và Tạ Bú (tuyến dưới). Pa Vinh II được chọn dù cho năng lượng thấp hơn Tạ Bú, bởi mặt bằng thi công ở đây thuận lợi, bớt tốn kém, thị trấn Mường La không bị ngập nên đỡ phần di dân. Ở bậc thang Lai Châu, hai tuyến Thác Lai và Nậm Nhùn được cân nhắc, trong đó chọn Nậm Nhùn bởi nằm xa đứt gãy Lai Châu - Điện Biên, nền đập chắc, địa hình thuận lợi.
Ông Hồ Đức Việt. |
Đánh giá về tờ trình của Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Khoa học & công nghệ của Quốc hội Hồ Đức Việt cho rằng, các cơ quan chức năng đã thực hiện nghiêm túc yêu cầu điều tra bổ sung của Nghị quyết Quốc hội khóa X (6/2001). Một số vấn đề như sóng vỡ hệ thống đập Sơn La - Hòa Bình, ảnh hưởng của 47% lưu vực sông Đà trên lãnh thổ Trung Quốc... đã làm được rõ hơn. Tuy nhiên các quy hoạch phục vụ nghiên cứu khả thi chưa được hoàn thiện: quy hoạch cấp nước cho hạ du, chống lũ; quy hoạch tổng thể di dân tái định cư. Các công trình thí điểm tái định cư ở Tân Lập (Sơn La) và Sipaphìn (Lai Châu) còn triển khai chậm...
Đánh giá tổng thể, Ủy ban Khoa học & công nghệ tán thành phương án năm. Ủy ban kiến nghị, với công trình lớn như thủy điện Sơn La cần thuê tư vấn nước ngoài để kiểm tra, đánh giá, chuẩn hóa số liệu trước khi hoàn chỉnh báo cáo khả thi và bước vào giai đoạn thiết kế kỹ thuật. Và trong quá trình làm báo cáo khả thi, nếu có yếu tố bất ngờ khác với các tính toán trước đây thì cần báo kịp thời, trung thực với Thường vụ Quốc hội và Chính phủ.
Về các vấn đề xã hội, bản thẩm tra của Ủy ban Khoa học & công nghệ thống nhất quan điểm với tờ trình của Chính phủ là số dân di cư phải được tái định cư tập trung là chính, trong địa bàn hai tỉnh Sơn La, Lai Châu. Dân chuyển đến nơi mới phải có cuộc sống tốt hơn nơi ở cũ. Việc di dời, định cư phải công bằng, dân chủ, hạn chế tối đa các nguy cơ phát sinh tranh chấp đất đai. Các vấn đề đất canh tác, nước, phương án sản xuất ở tiểu vùng sinh thái mới phải được chuẩn bị đồng bộ. Người dân cần được đào tạo, nâng cao trình độ dần phù hợp với nền kinh tế thị trường. Tất cả phải rút kinh nghiệm từ việc tái định cư cho dân lòng hồ Trị An, Hòa Bình, Yaly trước đây. Các khu định cư mẫu phải được xúc tiến nhanh.
Ủy ban Khoa học & công nghệ đề nghị Quốc hội tán thành đề xuất của Chính phủ: Xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La theo sơ đồ 3 bậc, là Hoà Bình (115 m đã xây) - Sơn La (215 m, tuyến Pa Vinh II) - Lai Châu (tuyến Nậm Nhún), ứng với mực nước dâng bình thường 210-215 m; đồng thời giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhiệm vụ giám sát thực hiện, giao Chính phủ chỉ đạo hoàn chỉnh hồ sơ dự án, để công trình có thể khởi công vào năm 2005.
Từ nay đến cuối kỳ họp, Quốc hội sẽ thảo luận, xem xét phương án xây dựng nhà máy thủy điện này.
Nghĩa Nhân