Nhiều nước đang đẩy mạnh nuôi cá da trơn. |
Không phải ngẫu nhiên Bộ Thủy sản vạch ra lộ trình này cho 5 năm tới. Năm 2004, các doanh nghiệp chế biến đã “ngốn” gần hết 300.000 tấn cá tra, basa ở ĐBSCL. Nhiều ngư dân như “vua” cá tra Bảy Viễn ở cù lao Tân Lộc (Cần Thơ) với 12 ha nuôi hầm đạt lợi nhuận 1 tỷ đồng/ha. Và mức lợi nhuận của hàng nghìn ngư dân nuôi cá tra ở Cần Thơ là 600 triệu-1 tỷ đồng/ha. Lợi nhuận này, nhờ cá tra, basa có mức xuất khẩu từ 2,5 USD/kg khi vụ kiện bán phá giá ở Mỹ xảy ra tăng lên 3,8-4 USD/kg.
Số lượng ước tính của ĐBSCL đã vượt qua 500.000 tấn năm 2005 (tăng khoảng 200 ngàn tấn so với năm 2004). Theo Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc, hướng phát triển 1 triệu tấn hay hơn nữa, chẳng qua là cân đối trên cơ sở kế hoạch cũng như nhiều nguồn lực khác nhau. Trước đó, các địa phương đã đề nghị 1,8 triệu tấn.
Ngày 8/4, giá cá basa, cá tra ở Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ chỉ còn 11.500-12.000 đồng/kg, giảm 300-500 đồng/kg so với tháng 3. Giá cá giảm chủ yếu do các đơn đặt hàng giảm mạnh của thị trường EU. Các nước EU phát hiện một số lô hàng cá tra, basa của doanh nghiệp Việt Nam có hóa chất cấm sử dụng. |
Việc đạt sản lượng 1 triệu tấn trong 5 năm tới là không khó. Tuy nhiên, điều đáng quan ngại hiện nay là tình trạng gây ô nhiễm của các hộ nuôi cá tra, cá basa đang gia tăng. Hàng xuất khẩu vào thị trường EU có dấu hiệu chững lại do một số lô hàng bị phát hiện có hóa chất cấm sử dụng. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa như Công ty TNHH Nam Việt, Công ty Agifish… đã cảnh báo nông dân hãy ngừng ngay việc sử dụng 4 loại hóa chất cấm như: Malachite Green, Leucomalachite Green, Chloramphenicol, Nitrofurans. Nhiều lô hàng xuất khẩu của doanh nghiệp ĐBSCL đã bị thị trường EU trả lại do nhiễm các chất cấm này. Ông Ngô Phước Hậu, Tổng Giám đốc Công ty Agifish (An Giang), nhận định: các giải pháp ngăn chặn tình trạng sử dụng hóa chất cấm vào nuôi cá hiện nay rất chậm. Trong tương lai, các địa phương cần liên kết chặt, từ cộng đồng người nuôi cá đến doanh nghiệp để loại trừ tình trạng nguy hiểm này.
Sau những thăng hoa của doanh nghiệp xuất khẩu, rồi trầm lắng của người nuôi khi giá cá rớt đến mức thảm hại, khiến nhiều người phá sản… người ta nhận ra căn nguyên của vòng luẩn quẩn ấy do chính nội bộ của giá trị nghề cá Việt Nam. Sự cạnh tranh giành giật khách hàng dẫn đến sụt giảm chất lượng uy tín sản phẩm cá tra, basa… Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Nguyễn Hoàng Việt bức xúc: “Ngay những thành viên của chuỗi giá trị nghề cá thời gian qua chưa chịu ngồi cùng thuyền thì làm sao giải quyết những vấn đề chung”.
Ông Huỳnh Thế Năng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang cho rằng để quản lý được chất lượng cá tra, cá basa theo cộng đồng, phải quản lý từ gốc, theo một quá trình truy nguyên và gắn với chuỗi giá trị. Cá tra, basa Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức mới: nhập vào Mỹ không được đứng tên “catfish”.
Cùng lúc này, Mỹ đã nghiên cứu cải biến gen, sinh sản nhân tạo và nuôi cá tra pangasius hypophthalmus thương phẩm. Trung Quốc vươn lên vị trí hàng đầu về sản lượng xuất phi lê cá nheo và các loại cá da trơn vào thị trường Mỹ. Thái Lan đưa nghề nuôi cá tra và các loại Pangasius khác vào chương trình phát triển cấp quốc gia. Nguy cơ mất thị trường của Việt Nam càng cao nếu không nhanh chóng đổi mới quản lý, cải thiện chất lượng ở các công đoạn sản xuất.
PGS.TS Nguyễn Thanh Phương (Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ) đã đặt một câu hỏi khá thú vị: Khi đặt ra sản lượng 1 triệu tấn cá tra, basa chúng ta dựa trên cơ sở nào? Người dân có thể nuôi được, nhưng chúng ta đã cân nhắc đầy đủ về thị trường, môi trường nuôi chưa? Ví dụ thời điểm năm 1997-1998 dịch bệnh chỉ gây hao hụt nhỏ hơn 3%, nhưng hiện nay đã lên mức 25-30%/sản lượng. Thực tế tình trạng ô nhiễm cục bộ do các ao, bè nuôi cá tra, cá basa đã diễn ra… Nếu không có những đánh giá chính xác về môi trường, nguồn lực ao bè, cá giống…, ngành thủy sản sẽ phải trả giá đắt cho việc phát triển nuôi nóng vội như một số nước đã vấp phải.
(Theo SGGP)