Ngày 11/11, Quốc hội dành nửa buổi sáng để các đại biểu thảo luận tại tổ về việc triển khai Nhà máy lọc dầu Dung Quất, sau khi đã nghe Bộ Công Thương và Ủy ban Khoa học Công nghệ Môi trường Quốc hội báo cáo và đánh giá về dự án một tuần trước đó. Buổi thảo luận có ý nghĩa quan trọng để Quốc hội cân nhắc có ban hành nghị quyết công nhận kết thúc công trình ngay kỳ họp này hay không.
Nói như đại biểu Nguyễn Thị Bạch Mai (Tây Ninh), việc đánh giá tổng kết này rất quan trọng, bởi Quốc hội từng bấm nút thông qua nhiều dự án trọng điểm quốc gia, nhưng đây là lần đầu tiên các đại biểu được bấm nút công nhận kết thúc một công trình trong số đó. Vì vậy theo bà Mai, để rút kinh nghiệm, cần phân tích thấu đáo, mổ xẻ các vấn đề tồn tại khi triển khai Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, từ việc chậm tiến độ thi công, tăng tổng mức đầu tư, độ chính xác của dự toán công trình, hiệu quả kinh tế và đặc biệt là trách nhiệm giám sát của Quốc hội.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất cho ra sản phẩm đầu tiên vào tháng 2/2009, hiện đã vận hành với 100% công suất. Ảnh: Trí Tín |
Dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư xây dựng tại kỳ họp thứ 2 khóa X (tháng 12/1997). Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) được giao làm chủ đầu tư dự án. Sốt ruột với tiến độ dự án, gần 8 năm sau, tại kỳ họp thứ 7 khóa XI (tháng 6/2005), Quốc hội ra nghị quyết yêu cầu tập trung chỉ đạo xây dựng nhà máy. Và đến nay, tới gần cuối nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, công trình mới chuẩn bị hoàn tất khâu quyết toán.
Như vậy, tiến độ bàn giao nhà máy chậm khoảng 9 năm so với yêu cầu ban đầu của Quốc hội và theo chủ đầu tư nguyên nhân chủ yếu là do phải nhiều lần chuyển đổi hình thức đầu tư, thay đổi thiết kế, nhà thầu.
Theo dõi công trình suốt thời gian dài, Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Võ Hồng Phúc thừa nhận còn một nguyên nhân quan trọng nữa đó là quyết tâm chưa mạnh mẽ. Ý tưởng xây nhà máy có từ những năm 1980, sau khi chọn địa điểm vào năm 1994, dự án vẫn chưa thể triển khai vì còn nhiều ý kiến phân vân. Theo bộ trưởng, nếu quyết tâm ngay từ đầu, Nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất đã có thể đi vào hoạt động từ 2002-2003 và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Đại biểu Nguyễn Thị Bạch Mai cho rằng Quốc hội cũng có trách nhiệm của mình, đã bấm nút thông qua thì lẽ ra phải giám sát chặt chẽ và yêu cầu Chính phủ quyết tâm mạnh mẽ để triển khai. "Khi đã quyết định đầu tư phải quyết liệt giám sát. Đây là bài học xương máu cho Quốc hội chúng ta", bà Mai nói.
Không chỉ chậm tiến độ, dự án Nhà máy Lọc dầu số một Dung Quất còn phải 3 lần điều chỉnh tổng mức đầu tư, từ mức phê duyệt ban đầu 1,5 tỷ USD lên 2,5 tỷ USD và cuối cùng là hơn 3,05 tỷ USD. Trong báo cáo gửi Chính phủ, chủ đầu tư PetroVietnam lý giải do phát sinh khối lượng công việc lớn, phải đầu tư bổ sung nhiều hạng mục, thay đổi công nghệ, chi phí xử lý túi bùn, biến động giá cả trong đó có biến động tỷ giá.
Ông Nguyễn Hoài Giang, Tổng giám đốc Công ty TNHH một thành viên Lọc hóa dầu Bình Sơn - đơn vị quản lý và vận hành nhà máy cho biết các đối tác nói giá cao vì tính cả các chi phí khác. Ông Giang thừa nhận, vào Dung Quất thì chỉ sử dụng được tàu nhỏ nên rất hay bị ảnh hưởng bởi thời tiết như bão hoặc sóng lớn. Còn nhập khẩu, doanh nghiệp sử dụng tàu lớn và yếu tố thời tiết ít ảnh hưởng, chưa kể khi về đến VN các điểm giao nhận cũng thuận tiện hơn khi lấy xăng ở Dung Quất.
Tuy nhiên, ông cho rằng bỏ qua yếu tố về thời tiết thì việc doanh nghiệp mua xăng trong nội địa sẽ giảm áp lực về ngoại tệ, nhất là trong bối cảnh tỷ giá biến động như hiện nay. Giải thích về việc Dung Quất bán xăng cho đối tác trong nước với giá ngang với giá nhập khẩu, ông Giang cho rằng dù Việt Nam có vài nhà máy lọc dầu thì giá bán cũng không thể thấp hơn so với thị trường. Nếu bán giá thấp hơn giá nhập khẩu thì sẽ xảy ra tình trạng buôn lậu, xăng dầu sẽ xuất lậu qua biên giới.
Hồng Anh
Dẫu vậy, chủ đầu tư vẫn hài lòng vì khi nhà máy đi vào hoạt động từ năm 2009 có hiệu quả kinh tế cao hơn dự tính (hệ số IRR đạt 7,66% trong khi mức tính toán của năm 2005 là 5,87%). Mặt khác, quyết toán sơ bộ cho thấy việc triển khai công trình tốn kém ít hơn so với mức đầu tư được duyệt (giá trị quyết toán chỉ là 43.800 tỷ đồng trong khi mức đầu tư được duyệt quy theo tỷ giá 16.937 đồng là 51.720 tỷ đồng), nhờ chênh lệch giữa doanh thu và chi phí trong giai đoạn chạy thử nhà máy.Tuy nhiên, nhiều đại biểu Quốc hội không đồng tính với đánh giá này. Đại biểu Nguyễn Đình Xuân cho rằng dự án chậm hoàn thành gần chục năm nên không tận dụng tốt thời gian ân hạn lãi suất cho khoản vay nước ngoài, nếu làm ngay và đúng tiến độ, có thể kịp cho ra thương phẩm trước khi trả lãi. Hệ số IRR mà chủ đầu tư cho là cao được tính toán dựa trên các yếu tố đầu vào trước đây, chứ chưa cập nhật những thay đổi hiện nay.
"Tổng mức đầu tư của dự án hơn 3 tỷ USD, bỏ rẻ lãi suất vay trong và ngoài nước là 7%, mỗi năm riêng tiền lãi đã lên tới 210 triệu USD. Tính thêm phần khấu hao 150 triệu USD, vị chi mỗi năm nhà máy phải làm ra trên 360 triệu đôla mới có lãi. Liệu chúng ta có thể làm được như vậy không? Cần rạch ròi chuyện lời lãi để Quốc hội rõ", ông Xuân nói.
Ông Xuân cũng không "khen" chuyện giá trị quyết toán thấp hơn tổng mức đầu tư được phê duyệt, mà căn vặn tại sao khâu dự toán lại thiếu chính xác đến vậy. "Đại diện Bộ Công Thương trả lời là do dầu mua về phục vụ quá trình chạy thử nhà máy, sau đó vẫn tận dụng để bán ra thu được tiền. Giả sử đúng vậy, thì chẳng lẽ lúc đầu anh tính dầu mua về chạy thử rồi bỏ đi? Bỏ đi cả nửa tỷ đôla đâu đơn giản? Tư vấn thế nào mà lại để chênh lệch dự toán so với quyết toán lớn đến vậy", ông Xuân thắc mắc.
Tháng 2/2009, Nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất cho ra sản phẩm đầu tiên, đến tháng 5 năm nay đã được nghiệm thu, bàn giao và đang vận hành ổn định với 100% công suất. Mục tiêu của dự án là khi vận hành đủ công suất thiết kế, sẽ đáp ứng 30% nhu cầu xăng dầu trong nước, giúp giảm phụ thuộc vào thị trường bên ngoài.
Nhưng chỉ vài tháng sau khi nhà máy vận hành lại phát sinh chuyện tồn kho hàng trăm nghìn tấn sản phẩm, hàng làm ra chưa được các nhà phân phối trong nước ký hợp đồng bao tiêu ngay. Mãi đến chiều 9/11, mới có thêm một số đầu mối ngoài Tập đoàn PetroVietnam đồng ý ký hợp đồng tiêu thụ. Thế nhưng các đối tác ký một cách khiên cưỡng và chê giá mua đắt chẳng kém nhập từ nước ngoài.
Từng tham gia đoàn khảo sát của Quốc hội, đại biểu Nguyễn Đình Xuân tỏ ra không hài lòng vì lúc đoàn đến làm việc, nhà máy báo cáo không thừa sản phẩm, nhưng khi đoàn về lại báo cáo tồn kho, lúc 700.000 tấn, lúc 100.000. Theo ông Xuân, không thể ép các đầu mối phải chuyển hết sang mua xăng dầu Dung Quất, bởi họ phải đa dạng hóa đối tác cung cấp để đảm bảo nguồn xăng dầu cho tiêu thụ của cả nước không bị gián đoạn nếu nơi này, nơi kia gặp sự cố.
"Xây xong nhà máy lọc dầu rồi mới thấy bất cập về cảng, tàu to không vào được. Người ta mua từ Singapore cùng giá như vậy, cước vận chuyển như vậy, nhưng nếu chở tàu 20.000 tấn sẽ rẻ hơn mua ở Dung Quất mà chỉ chở được 5.000 tấn", ông Xuân nói.
Chia sẻ quan điểm này, đại biểu Hoàng Thương Lượng cho rằng Dung Quất là dự án trọng điểm quốc gia liên quan tới vấn đề kinh tế nhiều hơn, vì vậy lẽ ra Quốc hội cần giao Ủy ban Kinh tế giám sát và thẩm định hiệu quả của dự án, thay vì yêu cầu Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường làm như hiện nay.
Một số đại biểu khác đề nghị lùi thời gian thông qua nghị quyết công nhận kết thúc dự án. Theo lịch làm việc dự kiến, Quốc hội sẽ bố trí ngày 26/11 để biểu quyết thông qua nghị quyết này. Nhưng các đại biểu cho rằng từ lúc thảo luận cho đến khi ra nghị quyết và bấm nút thông qua quá ngắn. Vì vậy đề nghị Quốc hội lùi lại tới kỳ họp tháng 3 năm sau mới quyết.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Quốc hội Nghiêm Vũ Khải cũng cho rằng đây là lần đầu tiên Quốc hội ra nghị quyết để đóng dấu hoàn tất một dự án do Quốc hội phê duyệt. Vì vậy cần đánh giá để có thể kết thúc một cách nghiêm túc, trở thành khuôn vàng thước ngọc rút kinh nghiệm cho các dự án, công trình trọng điểm khác.
Song Linh