Thời gian này, giám đốc Công ty T.L (chuyên giặt tẩy và may hàng đi Mỹ) phải liên tục điện thoại đi các nơi để xin viện trợ từng lô hàng nhỏ, giá gia công "bèo" để duy trì hoạt động. "Tuy nhiên, kết quả là cái lắc đầu từ chối của các doanh nghiệp bạn vì họ cũng chẳng hơn gì", vị giám đốc này nói. Khi thành lập, T.L có khoảng 2.000 công nhân, nhưng hiện doanh nghiệp này chỉ còn sản xuất cầm chừng.
Hiện nay trên địa bàn TP HCM có gần chục công ty rơi vào tình trạng như T.L, cá biệt có trường hợp như Công ty H.G phải trả mặt bằng thuê, bán máy móc... tìm hướng đầu tư khác.
Sau khi khi công bố quota đợt I năm 2004, nhiều doanh nghiệp dệt may TP HCM đã bắt đầu chuyển hướng, quay lại tìm hiểu thị trường EU, Nhật Bản hoặc nghiên cứu những mặt hàng không có quota ở Mỹ. Một số doanh nghiệp khác thì quay về thị trường nội địa. |
Theo nhiều doanh nghiệp thì thực tế trên bắt nguồn từ quota đi Mỹ. Giám đốc Công ty May xuất khẩu Bình Hòa, ông Phùng Đình Ngọ, cho biết, doanh nghiệp có 300 máy may với khoảng 400 công nhân nhưng thành tích năm 2004 của công ty lại dựa vào 225 tá hàng được phân năm 2003. "Năm nay, đa số các công ty đều không đủ quota để xuất khẩu đặc biệt là hai cat "nóng" 338/339 và 347/348. Nhưng đến cuối năm, 2 cat này lại bị tồn. Lo ngại nhất là là điều này lại có thể lan sang cả năm 2004", ông Ngọ nói.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng, một trong những điểm phi lý nhất của liên bộ là không tính thành tích xuất khẩu trọn năm 2003 của doanh nghiệp mà lại tính từ 1/5 đến 31/12. "Việc tính như vậy sẽ khiến nhiều công ty trở thành chẳng có thành tích gì vì cả 4 tháng đầu năm có xuất cũng như không", một doanh nghiệp nói.
"Chọn thời gian để tính thành tích như vậy coi như những doanh nghiệp làm hàng mùa hè không còn đường làm ăn với Mỹ", ông Nguyễn Đức Hoan, Phó chủ tịch Hội dệt may Việt Nam nói.
(Theo Thanh Niên)