Nỗi lo lớn của các doanh nghiệp dệt may là quota. |
Ông Phạm Xuân Hồng, Tổng giám đốc Công ty may Sài Gòn 3, phản ánh, thông tin từ Bộ đưa ra không thuyết phục doanh nghiệp. Cuối tháng 8, Bộ cho biết lượng quota đã hết, nhưng xem thông tin trên mạng thì chỉ mới phân bổ được 67%. Chưa kể, có nhiều doanh nghiệp được phân quota, nhưng không dám đưa ra sử dụng do số quota có liên quan đến việc ông Thắng vừa bị bắt (Cat 338/339). Ông Hồng cho rằng: "Trong việc phân bổ hạn ngạch còn một dấu chấm hỏi bí ẩn, chưa ai giải quyết được".
Đồng tình với ý kiến trên, ông Phùng Đình Ngọ, Giám đốc Công ty may Bình Hòa, cho rằng lượng quota thực tế do ngoài Bộ nắm và phân bổ không theo một chuỗi nào. Điển hình, Cat 338/339 có lượng quota là 15 triệu tá, trong đó không hiểu vì lý do gì mà công ty Chute'x, mới hoạt động được 8 tháng, lại được nhận 1,2 triệu tá. Như vậy là quá nhiều, nếu cộng số lượng quota của các công ty may ở thành phố lại có khi chưa bằng Chute'x. "Sao lại có sự chênh lệch giữa các công ty Việt Nam và các công ty nước ngoài lớn như thế", ông Ngọ thắc mắc.
Một đại diện Công ty may Garmex than thở: "Cho đến thời điểm này công ty Garmex đang lâm vào thời kỳ khủng hoảng do tờ phí quota 10 nghìn tá đã có trong tay, nhưng không thể sử dụng được". Vị đại diện này dự báo, chắc chắn thời gian sắp tới ngành may mặc Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn từ việc ông Thắng bị bắt vì thị trường Mỹ không thể chấp nhận những vi phạm do sự chậm trễ của đối tác Việt Nam. Hàng hóa ở Cat 338/339 có khi phải trì trệ hoặc hủy bỏ. Riêng Garmex trong tháng 9 đã cho 970 lao động nghỉ việc vì không thể tiếp tục hoạt động, do hàng làm ra nhưng không xuất khẩu được.
Cách phân bổ quota của Bộ Thương mại năm nay khiến nhiều doanh nghiệp rất bức xúc. Bà Linh, Giám đốc Công ty may Minh Châu đã bày tỏ ý kiến, để có được khách hàng ở Mỹ bà đã xin tham gia cuộc triển lãm hội chợ ở New York vào trung tuần tháng 8 vừa qua. Thực tế ở hội chợ cho bà Linh thấy hàng may mặc của Việt Nam còn quá nhỏ so với Trung Quốc và các nước khác, nhưng lại bán giá cao hơn vì phải cộng thêm phí hạn ngạch. Đó cũng là nguyên nhân khiến phía Mỹ không thích mua hàng Việt Nam.
Khi bà Linh kiếm được khách hàng thì số hàng hóa đó nằm trong hạn ngạch. Minh Châu đã đưa hóa đơn xuất khẩu của 2003 ra Bộ để xin quota xuất khẩu (ở Cat 638) nhưng chờ mãi đến hạn giao hàng vẫn chưa xin được. Lý do của ông Lê Văn Thắng đưa ra là còn thiếu nhiều giấy tờ. "Tôi đã đi xin đầy đủ các loại giấy tờ, từ hóa đơn của những cái nút áo, chứ đâu phải thiếu thứ gì, tại ông Thắng không muốn giao nên lần lừa như thế?", bà Linh nói. Khi Bộ đồng ý giao cho Minh Châu 150.000 tá ở Cat hàng tất (623) thì doanh nghiệp này cũng không thể sử dụng được. Minh Châu kiến nghị thì Bộ Thương mại lý giải, nếu không sử dụng được có thể đổi lại cho doanh nghiệp khác, mà thực tế đâu dễ như vậy.
Trong buổi họp có rất nhiều công ty cho biết đang lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn. Một đại biểu nói để tồn tại công ty của ông đã phải đi năn nỉ các công ty khác nhường lại quota để đủ 100% lượng hạn ngạch xuất qua thị trường Mỹ. Vì công ty của ông chỉ được cấp khoảng 25-30% so với tổng thành tích mà thôi.
Tổng giám đốc Công ty may Tân Phú Cường, ông Thủy, còn cho biết thêm, hiện nay khách hàng Mỹ không đồng ý cộng thêm phí quota, nếu cộng vào họ sẽ không ký hợp đồng nhập khẩu và quay sang làm ăn với các nước phi quota. Điều này dẫn đến các công ty Việt Nam phải chịu lỗ. Ông Thủy hy vọng rằng khi Vụ phó mới lên thay thế sẽ minh bạch hơn trong việc phân bổ hạn ngạch.
Cuối cùng bà Nguyễn Thị Thanh Quang, Phó chủ tịch Hội Thêu đan, đưa ra những kiến nghị để trình lên Bộ, nhằm đem lại công bằng cho các doanh nghiệp dệt may. Bộ nên xác định lại thành tích của doanh nghiệp từ đầu 2003. Và để đảm bảo tính công bằng, minh bạch cho doanh nghiệp khi đưa lên mạng, Bộ nên phân chia ra 3 cột rõ ràng: diện tích nhà xưởng, số lượng máy và công nhân.
Thùy Vinh