- Ông có nhận xét gì sau 9 tháng thi hành Thông tư liên tịch số 25/2001 về việc giao và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU năm 2002?
- Trước tình hình sử dụng hạn ngạch đi EU có chiều hướng suy giảm, năm 2001, liên bộ Thương mại, Công nghiệp, Kế hoạch & đầu tư thống nhất áp dụng thí điểm phương thức quản lý hạn ngạch mới cho năm 2002. Đó là "cấp giấy phép tự động" cho toàn bộ các mặt hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có áp dụng hạn ngạch như EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ. Việc này sẽ chấm dứt khi đạt tỷ lệ xuất khẩu 50% hạn ngạch cơ sở trong quý I, 70% trong quý II và 90% trong quý III.
Nhờ cơ chế cấp phép tự động này, hạn ngạch được sử dụng đúng đối tượng, phòng ngừa tiêu cực, chấm dứt hiện tượng mua bán hạn ngạch mà dư luận phê phán từ nhiều năm. Đồng thời, tạo sân chơi bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Hướng các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm thị trường mới, không chỉ trông chờ vào hạn ngạch.
- Nhưng tại sao lại có chuyện những doanh nghiệp như Đức Giang, May 10... đã ký được hợp đồng xuất khẩu nhưng lại không có hạn ngạch?
- Xét trên toàn cục thì cơ chế mới này có nhiều ưu việt. Tuy nhiên, tôi cho rằng cơ chế nào cũng có những mặt hạn chế của nó. Mấy năm gần đây, tốc độ đầu tư vào ngành dệt may tăng nhanh. Nhiều doanh nghiệp mới ra đời, trong khi hạn ngạch của một số mặt hàng tuy đã đàm phán với EU tăng thêm nhưng chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu.
Tốc độ thực hiện hạn ngạch nhiều mặt hàng tăng đột biến nên khi thực hiện cơ chế mới này gặp phải thực tế là: doanh nghiệp lúng túng khi dự đoán hạn ngạch để ký hợp đồng và nhận nguyên phụ liệu. Một số đơn vị đã không căn cứ vào tổng lượng hạn ngạch cả nước và mức thực hiện trung bình của các doanh nghiệp năm trước, đã tùy tiện ký hợp đồng với một số lượng lớn so với tổng hạn ngạch cả nước.
- Vậy sẽ xử lý những trường hợp như Công ty May Đức Giang như thế nào?
- Hiện nay một số đơn vị như may Đức Giang đang thiếu hạn ngạch sơ mi nam (Cat.8). Mặt hàng này từ ngày 26/7 Bộ Thương mại đã thông báo dừng cấp giấy phép xuất khẩu tự động từ ngày 10/9. Như vậy doanh nghiệp đã được báo trước 45 ngày.
Mặc dù vậy, để khắc phục khó khăn, Bộ Thương mại đang cùng các bộ tìm biện pháp hỗ trợ thêm bằng cách tiếp tục đàm phán với EU điều chỉnh tăng hạn ngạch, vận động một số nước ASEAN hỗ trợ thêm (nhưng số lượng sẽ không nhiều vì tỷ lệ cho phép có hạn), đồng thời vận động các doanh nghiệp trong nước được cấp hạn ngạch chưa sử dụng nhường lại, có thể lùi thời gian giao hàng giúp đỡ các công ty nói trên.
Mặt khác các đơn vị này cũng cần chủ động làm việc với khách hàng chuyển bớt đơn hàng và lùi thời gian giao vào đầu năm 2003 để giảm thiệt hại.
- Nhằm khắc phục những hạn chế trên, cơ chế điều hành xuất khẩu hàng dệt may của liên bộ năm 2003 có gì mới?
- Năm 2003 là năm thứ 11 chúng ta thực hiện quy chế quản lý và phân bổ hạn ngạch hàng dệt may đi EU (tính từ đầu năm 1993, khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU có hiệu lực). Nhằm ổn định sản xuất và xuất khẩu, sau khi tiếp thu ý kiến của các bộ ngành liên quan và các thành phố lớn, ngày 12/8/2002 liên bộ Thương mại, Công nghiệp, Kế hoạch & Đầu tư đã ban hành Thông tư liên tịch số 08 hướng dẫn việc giao và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ năm 2003. Quy chế này đã được cải tiến, bổ sung, đáp ứng được các yêu cầu: công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử; ổn định hạn ngạch để doanh nghiệp chủ động ký và thực hiện hợp đồng năm 2003 ngay trong quý 4 năm 2002; khuyến khích các công ty xuất khẩu bằng vải sản xuất trong nước, sử dụng hạn ngạch có hiệu quả và tận dụng lao động thủ công... Như vậy, về mặt thời gian, năm nay liên bộ đã ban hành thông tư sớm hơn 3 tháng so với năm 2001 để doanh nghiệp chủ động tìm thị trường và khách hàng.
(Theo Thời Báo Kinh Tế Việt Nam)