Các ngân hàng đang phải vay VNĐ với lãi suất cao. |
Để cải thiện tình trạng khan hiếm tiền đồng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã áp dụng lại nghiệp vụ SWAPS - hoán đổi ngoại tệ có kỳ hạn, được sử dụng để khắc phục tình trạng thiếu hụt tiền đồng (VNĐ) trong các ngân hàng thương mại (NHTM). Với nghiệp vụ này, các NHTM có nhu cầu sử dụng VNĐ, có thể bán ngoại tệ cho NHNN lấy VNĐ. Đến thời hạn đã thoả thuận, NHTM đó được phép mua lại từ NHNN lượng ngoại tệ đã bán ra. Tuy nhiên, nghiệp vụ này không phải biện pháp giúp ngân hàng giảm khó khăn về tiền đồng mà chỉ là “liều thuốc đắng cuối cùng” khi không còn biện pháp nào khác.
Phó tổng giám đốc của một NHTM nói: “Với mức lãi suất cho SWAPS 7 ngày là 0,8%, nếu tính lãi suất cả năm là 44%/năm. Đây là chưa kể số ngoại tệ này trong thời gian thực hiện nghiệp vụ SWAPS không được hưởng lãi suất. Nếu tính đủ thì lãi suất của một phiên giao dịch SWAPS 7 ngày lên tới 47,5%/năm (bởi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tại nước ngoài ít nhất cũng là 3,5% năm). Trong khi đó lãi suất cho vay trung bình của các ngân hàng chỉ ở mức 0,65%/tháng (7,8%/năm) thì có thể thấy thuốc SWAPS đắng như thế nào.
Ai uống thuốc đắng?
Trong tuần trước, một điều khó tin xảy ra. Ngân hàng Công thương Việt Nam (ICB) - ngân hàng mạnh nhất trong toàn hệ thống tiền đồng - đã buộc phải uống thuốc SWAPS. Ngân hàng này đã thực hiện một nghiệp vụ SWAPS có kỳ hạn 90 ngày với tổng khối lượng là 30 triệu USD. Mức lãi suất sơ bộ cho giao dịch này là gần 11%/năm, nhưng nếu tính đủ thì mức lãi suất còn lớn hơn.
Tiếp theo đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng buộc phải thực hiện nghiệp vụ này với NHNN với khối lượng và kỳ hạn như ICB. Ngân hàng Nông nghiệp là đơn vị thứ 3 phải uống liều thuốc cực đắng này với khối lượng 20 triệu USD và thời hạn là 30 ngày (tính sơ bộ lãi suất của giao dịch 15,5%/năm). Các “ông lớn” quốc doanh đã phải chấp nhận vay với giá cao để giải quyết vấn đề về khả năng thanh toán thì tình trạng khan hiếm tiền đồng rõ ràng đang ở mức báo động chứ không còn “vừa vừa” như trước đây.
Phó tổng giám đốc của một ngân hàng cổ phần tại Hà Nội cho biết: “Nếu buộc phải sử dụng nghiệp vụ SWAPS thì chẳng khác nào đi vay nặng lãi với mức lãi suất cắt cổ. Ban lãnh đạo của chúng tôi đã thống nhất trừ khi không còn phương cách nào khác thì mới sử dụng đến nghiệp vụ này”. Một lãnh đạo của ABN - AMRO Bank nói: “Nếu tình trạng khan hiếm tiền đồng tiếp tục kéo dài và trở nên nghiêm trọng hơm thì có thể SWAPS sẽ được tính tới”.
Chiều ngày 30/7 thị trường liên ngân hàng trở nên nhốn nháo khi ngân hàng nào cũng hỏi vay tiền đồng.
NHNN muốn tăng lãi suất VNĐ
Mặc dù lãi suất cơ bản tháng 8 vẫn được giữ nguyên nhưng những động thái gần đây trên thị trường tiền tệ dường như cho thấy NHNN đang muốn tăng lãi suất cho vay VNĐ. Các ngân hàng đang muốn bán các giấy tờ có giá như tín phiếu Kho bạc Nhà nước trên thị trường thì số lượng mua vào của NHNN lại rất hạn chế và với mức lãi suất rất “bèo”. Phó tổng giám đốc một ngân hàng quốc doanh nói: “Chúng tôi muốn bán nhiều hơn nhưng khối lượng mua vào của NHNN rất hạn chế nên không thể bán được. Chúng tôi đã tính đến SWAPS như một biện pháp cứu cánh”.
Chỉ trong vòng một tuần qua, hơn 1.200 tỷ đồng đã được “tung ra” thông qua nghiệp vụ SWAPS (hoán đổi lấy 80 triệu USD cho 3 ngân hàng quốc doanh), lớn hơn cả việc NHNN đưa tiền đồng ra trong 6 tháng đầu năm thông qua thị trường mở. Điều đáng chú ý hơn là các ngân hàng phải trả một giá rất cao cho việc nhận được tiền đồng trong trường hợp này. Điều này cũng có nghĩa là các ngân hàng sẽ không được khuyến khích sử dụng nghiệp vụ SWAPS và phải tính tới việc tăng lãi suất huy động để đáp ứng các nhu cầu. Trong vài tuần trở lại đây, mặt bằng lãi suất huy động VNĐ đã tăng 2 lần và chưa biết đã dừng hay chưa. Một hệ quả tất yếu là lãi suất cho vay VNĐ có khả năng tăng lên. Nếu như vậy thì người đầu tiên và tiếp tục phải chịu liều thuốc đắng là các NHTM, họ phải gánh chịu khi lãi suất VNĐ tăng trong điều kiện nền kinh tế đang thiểu phát trầm trọng và Chính phủ vẫn đang phải đẩy mạnh chủ trương kích cầu.
Biến cố thị trường
Thực chất, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để giảm lãi suất trên thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên nghịch lý đã xảy ra. NHNN đã thực hiện một loạt biện pháp như giảm dự trữ bắt buộc bằng VNĐ từ 5 xuống còn 3%, giảm lãi suất tái cấp vốn, giảm lãi suất chiết khấu... thì lãi suất VNĐ trên thị trường Việt Nam không những không giảm mà còn tăng, để xảy ra tình trạng trên.
(Theo Lao Động, Đầu Tư)