- Có ý kiến cho rằng giá cả đang tăng cao trên diện rộng và kéo dài. Theo dự đoán của ông, chúng ta cần kiểm soát lạm phát ngay khi nó mới chỉ bắt đầu không?
- Lạm phát có thể chia thành ba cấp độ. Dưới 3% là cấp độ an toàn. Cấp độ thứ hai là từ 3% đến 9%. Cấp độ thứ ba là ở mức hai con số. Mức độ trượt giá ba tháng đầu năm của nước ta đã tiệm cận 5%. Tôi cho rằng đã đến lúc Nhà nước cần quan tâm và có những biện pháp chỉ đạo mạnh hơn để khống chế sự tăng giá đột biến, nhằm vừa đảm bảo chất lượng tăng trưởng kinh tế, vừa tạo thuận lợi cho đầu tư và ổn định đời sống người dân.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, lạm phát tăng đồng nghĩa với hạn chế sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của hàng hóa xuất khẩu. Mới đây, một đại biểu Quốc hội đưa ra nhận xét mà tôi thấy rất đáng chú ý: theo báo cáo của Chính phủ thì năm 2003 tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống 11%, nhưng nếu giá cả cứ tăng như thế này thì có thể vấn đề hộ nghèo sẽ lật ngược trở lại, tiêu dùng của dân cư sẽ hạn chế, sản xuất bị bó hẹp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
- Dịch cúm gà, hạn hán, sự tăng giá của hàng hóa, nguyên vật liệu trên thị trường thế giới được ghi nhận là nguyên nhân khách quan dẫn tới sự trượt giá. Xét về mặt chủ quan, theo ông, sự điều hành ở tầm vĩ mô vừa qua liệu đã kịp thời và hạn chế tối đa tác động của những yếu tố khách quan bên ngoài?
- Theo tôi có hai vấn đề trong điều hành. Thứ nhất, vừa qua các ngành, doanh nghiệp đưa ra quyết định nâng giá hoặc có ý định nâng giá dồn dập trong một thời gian ngắn. Cùng với sự tăng giá một số nguyên liệu trên thị trường quốc tế, đây là cú hích đẩy giá lên. Thứ hai, các bộ, ngành lúng túng trong chỉ đạo, chưa có các biện pháp mạnh cả về kinh tế lẫn hành chính. Chúng ta đã giảm thuế nhập khẩu một số mặt hàng xuống 0%, nhưng trong bối cảnh biến động giá, tại sao không áp dụng biện pháp hành chính là giá trần để làm căn cứ kiểm soát? Kiểm soát ở hai mặt: chống đầu cơ và kiểm tra, quy định làm căn cứ để nay mai đánh thuế thu nhập đối với tổ chức, cá nhân vừa qua lợi dụng tình hình, đầu cơ tăng giá.
- Thưa ông, chúng ta vừa mới bỏ giá trần cách đây chưa lâu. Nay áp dụng lại, liệu có hợp lý?
- Trong điều kiện thương mại bình thường, vừa bỏ giá trần, rồi đem áp dụng lại ngay thì không nên. Tuy nhiên, trong bối cảnh giá tăng không bình thường, phải áp dụng biện pháp giảm thuế, tức là ngân sách thiệt, thì tại sao lại không đưa ra giá trần để kiểm soát? Sau đó một số bộ đã áp dụng giá trần cho thuốc men, sắt thép. Giá trần được sử dụng lại một cách chậm trễ, nhưng dù sao chậm còn hơn không.
- Điều đó có nghĩa giá trần là một giải pháp tình thế. Vậy giải pháp tình thế liệu có mang lại hiệu quả tích cực lâu dài?
- Chính phủ đã áp dụng một số biện pháp tình thế. Đối với sắt thép là giảm thuế nhập khẩu. Nhưng dù đã giảm thuế, giá thép xây dựng vẫn tăng khoảng 13-15% so với cuối năm 2003. Biện pháp này cũng không hạn chế được tác động của việc đình đốn ở một số công trình xây dựng, một số người làm giàu phi pháp do đầu cơ, gây thiệt hại cho Nhà nước và nhân dân. Đối với ngành dược, chỉ số giá hàng dược phẩm, y tế tháng 1 tăng 0,7%, tháng 2 tăng 1,2%, tháng 3 tăng 4,3%. Chính phủ đang tích cực chỉ đạo các ngành áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để kìm chế giá thuốc, nhưng những giải pháp này chưa có hiệu quả rõ rệt.
- Giá cả tăng đã làm người dân ý thức rõ hơn sự mất giá của đồng tiền từ thu nhập hàng tháng. Nhiều ý kiến cho rằng, việc tăng lương trong điều kiện đồng tiền mất giá sẽ không còn mấy ý nghĩa. Ông nghĩ sao?
- Sự mất giá của tiền đồng so với các ngoại tệ mạnh có lợi cho xuất khẩu, nhưng lại bất lợi cho nhập khẩu. Chúng ta vẫn trong tình trạng nhập siêu, nên xét về tổng thể thì sự mất giá đồng nội tệ gây bất lợi cho nền kinh tế. Trong bối cảnh giá tăng cao, việc tiếp tục áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng (lãi suất thấp, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc…) sẽ đẩy lạm phát gia tăng, ảnh hưởng không tốt đến tăng trưởng do giảm tiết kiệm và khả năng huy động vốn trong dân. Chính sách tiền tệ nới lỏng thời gian qua mới chỉ quan tâm đến khía cạnh tăng trưởng kinh tế mà chưa chú ý đúng mức đến vấn đề kiểm soát giá cả. Mặt khác, cũng cần thấy rằng sự phối hợp giữa các ngành chức năng trong thực hiện chính sách tiền tệ còn thiếu gắn kết. Ngành ngân hàng chỉ kiểm soát được lượng tiền lưu thông qua ngân hàng. Còn các hoạt động tiền tệ thông qua hoạt động tín dụng của các tổ chức khác như kho bạc, quỹ hỗ trợ phát triển, bảo hiểm, chứng khoán… chưa được phản ánh hết trong cân đối tiền tệ của hệ thống ngân hàng. Những yếu tố này sẽ làm tăng tổng phương tiện thanh toán và gây áp lực lạm phát. Theo kế hoạch, Nhà nước sẽ tăng tiền lương hưu cho các đối tượng nghỉ hưu trước tháng 4/1993, đồng thời dự định tăng lương cho cán bộ công chức từ tháng 10/2004. Những sự quan tâm này sẽ trở nên không còn mấy ý nghĩa trong tình trạng giá tiếp tục tăng cao.
(Theo TBKTSG)