Vì thế, việc hỗ trợ cho từng doanh nghiệp của tổng công ty khi cần thiết chỉ là chuyện trên giấy. Do không dựa trên cơ sở quan hệ về sở hữu, hợp đồng kinh tế… nên việc phân chia lợi ích giữa tổng công ty và doanh nghiệp thành viên vẫn đang bỏ ngỏ.
Theo kết quả kiểm kê tài chính năm 2000 đối với 44 doanh nghiệp thành viên của 3 tổng công ty trực thuộc Bộ Thủy sản thì số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 44,7% với tổng số lỗ là 143,7 tỷ đồng; số doanh nghiệp lãi chỉ chiếm 36,4% với tổng số lãi là 17,8 tỷ đồng. Có nghĩa là tổng số lỗ đã gấp 8 lần tổng lãi. Vì thế, việc tìm kiếm một mô hình hoạt động hiệu quả hơn cho các doanh nghiệp thành viên có thể coi như một giải pháp quan trọng.
Cả 3 tổng công ty đều lỗ!
Hiện nay, ngành thủy sản có 3 tổng công ty Nhà nước: Tổng công ty Thủy sản Việt Nam, Tổng công ty Thủy sản Biển Đông và Tổng công ty Thủy sản Hạ Long. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của các doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Sản lượng năm 2000 của 3 tổng công ty trên chưa đến 5% tổng sản lượng của cả nước.
Tổng công ty Thủy sản Việt Nam, doanh nghiệp lớn nhất của Bộ Thủy sản là đơn vị có tới 53,8% doanh nghiệp thành viên hoạt động kém hiệu quả và bị lỗ, với số tiền bị lỗ trong năm 2000 là gần 115 tỷ đồng. Ngoài ra, số nợ mà tổng công ty phải trả khoảng 982 tỷ đồng. Kết quả cũng tương tự đối với 2 tổng công ty còn lại: số lỗ của Tổng công ty Hải sản Biển Đông là 25 tỷ đồng, trong đó có 36% đơn vị thành viên hoạt động kém hiệu quả. Tổng công ty Thủy sản Hạ Long - đơn vị có tổng doanh thu năm 2000 gần 738 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 22 triệu USD - cũng có 42,8% doanh nghiệp thành viên bị thua lỗ.
Mô hình “công ty mẹ - công ty con” sẽ là giải pháp?
Hiện nay, chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không cho phép các tổng công ty 90 thu hồi lại phần vốn nhà nước được bán đi ở các doanh nghiệp thành viên thực hiện cổ phần hóa. Theo Tiến sĩ Trần Tiến Cường, Trưởng ban Nghiên cứu quản lý doanh nghiệp - Viện Nghiên cứu quản lý Trung ương, chính cơ chế này là nguyên nhân khiến các tổng công ty không muốn chuyển các doanh nghiệp thành viên sang hình thức sở hữu khác vì sợ giảm vốn, bị thu hẹp về quy mô và lợi ích. Ông Lê Văn Uyển, Phó ban Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước - Bộ Thủy sản, cũng cho rằng để các doanh nghiệp thành viên đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa, Chính phủ cần xây dựng quy chế nhập và rút khỏi tổng công ty. Gia nhập mà không xuất phát từ sự tự nguyện, số nợ phải trả và các khoản thâm hụt khác chiếm tỷ trong lớn trong tổng số vốn kinh doanh, thì cũng nên để doanh nghiệp thành viên rút lui để dễ bề xoay sở…
Hiện tại, 3 tổng công ty trực thuộc Bộ Thủy sản đã xây dựng đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của mình. Phương án mà các tổng công ty đưa ra là thí điểm mô hình tổng công ty tham gia vốn với doanh nghiệp thành viên, thực hiện đa sở hữu về vốn. Việc tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp theo mô hình này sẽ được phân làm 3 loại: công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh. Mối quan hệ giữa tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên là mối quan hệ kinh tế theo mô hình “công ty mẹ – công ty con”, điều hành bằng cơ chế tài chính, thay việc giao vốn bằng góp vốn.
Tuy nhiên, vẫn theo ông Lê Văn Uyển, vướng mắc chủ yếu của các tổng công ty hiện nay vẫn là do không xác định rõ địa vị pháp lý, vốn, tài sản của tổng công ty và doanh nghiệp thành viên; đồng thời cũng không phân định được rõ ràng quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của hội đồng quản trị và tổng giám đốc. Vì thế, việc lựa chọn mô hình đổi mới phụ thuộc rất nhiều vào công tác rà soát, đánh giá lại các đơn vị thành viên. Chỉ từ cơ sở đánh giá như vậy, các tổng công ty mới có thể tìm ra phương án cụ thể để thúc đẩy tiến trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp. Đây sẽ là hướng đi mới không chỉ riêng cho ngành thủy sản, mà còn có thể áp dụng đối với các tổng công ty 90-91 nói chung khi đổi mới mô hình hoạt động.
SGGP, 28/5