Năm nay thiếu mía, sang năm lại thừa. |
Sau cây cà phê, có lẽ cây mía là loại cây làm cho người dân hoang mang nhất. Với chương trình 1 triệu tấn đường/năm của Chính phủ, cách đây vài năm các nhà máy đường được xây dựng khá ồ ạt, nhiều địa phương xây dựng lên đến 3 nhà máy luôn một lúc. Phong trào trồng mía cung cấp cho các nhà máy đường phát triển khá nhanh. Thế nhưng số phận của cây mía lại thay đổi theo từng mùa vụ.
Mùa mía sau có khủng hoảng thừa?
Trước tình trạng thiếu hụt nguyên liệu, nhiều nhà máy phải đóng cửa, giá mía nguyên liệu lên cao, giá thành đường có nơi lên đến 6.500 đồng/kg, hiện tại nhiều nhà máy đường trên cả nước đã hợp đồng với nông dân để mở rộng diện tích mía. Đăk Lăk mở rộng lên 7.000 ha, Khánh Hòa tăng lên 17.000 ha và Phú Yên, Ninh Thuận cùng các tỉnh khác cũng đều đẩy mạnh diện tích trồng mía. Các công ty đường áp dụng phương pháp ứng vốn, cung cấp các loại giống mía có năng suất cao và ký hợp đồng mua mía trong 3 niên vụ với giá tối thiểu là 220.000 đồng/tấn 10 chữ đường dù có bất trắc như thị trường bị dôi dư, giá đường hạ. Bên cạnh đó, việc mở hệ thống giao thông nội bộ để có thể đưa xe tới ruộng mía cũng đã được tiến hành.
Thừa, thiếu... rồi lại thiếu, thừa!
Vụ mùa 1998-1999 là thời điểm nhiều nhà máy đường đi vào hoạt động, cuộc chiến thu mua mía diễn ra khá gay gắt. Khi thời hoàng kim của người trồng mía đến, ngoài việc cạnh tranh thu mua mía nguyên liệu giữa các nhà máy, còn kèm theo cuộc cạnh tranh giữa nhà máy và các lò đường thủ công. Khi đó, những người quản lý đã minh chứng cho việc mía sản xuất bằng thủ công là không kinh tế - trước hết là trữ lượng đường trong mía chỉ thu được từ 60-80%. Vào thời điểm năm 1998, nhiều lò thủ công đã phải tạm nghỉ vì các nhà máy đường đã ứng tiền, ứng giống cho người trồng mía, họ lại thu mua giá cao nên chẳng ai bán mía ra ngoài.
Vụ mùa mía 1999-2000 mía rớt giá vì được trồng thiếu quy hoạch, chẳng hạn như nhiều vùng đất trồng chỉ đạt 5-10 tấn/ha, trữ lượng đường trong mía có khi chỉ 5-6 chữ đường người ta vẫn trồng; mía trồng nhiều khi ở những địa điểm không có đường sá để xe vào vận chuyển. Giá mía vào thời điểm khủng hoảng đã rớt chưa từng thấy. Tại Đăk Lăk, nhiều nơi phải bán cho tư thương với giá 110.000 đồng/tấn nhưng phải tự chặt, đưa lên xe, và còn hơn 500 ha mía không bán được. Tại Nha Trang, giá mía xuống còn 150.000 đồng/tấn nhưng do nôn nóng nên nhiều nơi chặt trước đợi bán, bán không được nên mía khô trên ruộng.
Hậu quả là vụ mùa tiếp theo 2000-2001 các nhà máy đường dù nâng giá liên tục, có nơi lên tới 270.000 đồng đến 320.000 đồng/tấn 10 chữ đường vẫn thiếu mía. Bởi đơn giản là giá dù cao nhưng diện tích trồng mía đã thu hẹp lại thì mía đâu mà bán ? Vụ mía đường 2000-2001 đã kết thúc với tình trạng nhiều nhà máy đường phải ngưng hoạt động vì thiếu nguyên liệu.
Cần có cái nhìn tỉnh táo
Do thiếu hụt nguyên liệu trong vụ mùa vừa rồi, vụ mùa tới đây nhà nhà lại đổ xô trồng mía là điều khó tránh khỏi. Phải có một cái nhìn tỉnh táo để vụ mía đường 2001-2002 sẽ không bị lặp lại như vụ mía đường 1999-2000. Đó là việc tăng vùng mía nguyên liệu là cần thiết, nhưng không nhất thiết để người dân lại lao vào trồng mía ở những nơi năng suất thấp, không có hệ thống giao thông với tâm lý... thiếu mía thì họ sẽ mua. Viễn cảnh mía nguyên liệu dôi dư là điều có thực cần phải ngăn chặn. Sự sống còn của các nhà máy đường không phải chỉ có đủ nguyên liệu để sản xuất, đồng thời đẩy giá lên khi thị trường khan hiếm để bù lỗ cho vụ trước. Điều cốt lõi là phải bảo đảm giá đường bán ra thị trường có giá đúng với giá thực tế. Nếu không, khi đường ở trong nước leo giá, đường nhập lậu với nhiều ngõ ngách thâm nhập vào. E rằng lúc đó tình trạng mía đợi thu mua sẽ lại tái diễn. Chính giá hành hợp lý mới có thể đưa đường Việt Nam xuất khẩu.
Hy vọng những dự báo trên có thể là gợi ý cho vụ mùa mía sau, người nông dân trồng mía lại tiếp tục vui như vụ mía đường năm nay.
A. T.