- Ông đánh giá thế nào về khoản tiền mà Việt Nam đang nợ? - Trong tổng số nợ 15 tỷ USD đó có 3,5 tỷ USD là của Ngân hàng Thế giới. Tính trung bình mỗi người nợ 180 USD, nhưng họ chỉ phải trả khoảng 5 USD một năm vì có tới 90% nợ là vốn vay ưu đãi. Việt Nam không phải trả lãi suất thị trường cho những khoản vay này. Hiện giờ nợ Việt Nam phải trả hằng năm chiếm khoảng 6,5% kim ngạch xuất khẩu mỗi năm. Chúng tôi tính rằng con số này sẽ ổn định vì xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng đủ để trả số nợ tăng lên hằng năm. Theo kinh nghiệm quốc tế thì cần theo dõi chặt nợ nước ngoài khi tỷ lệ trả nợ so với thu nhập từ xuất khẩu cao hơn 30%. Nhưng không có vấn đề gì lớn cho đến khi tỷ lệ này là 100% vì như thế một quốc gia sẽ phải trả nợ nhiều hơn số tiền kiếm được. Việt Nam còn ở rất xa những mốc này. Vì thế bây giờ Việt Nam nên vay vì đang được nhận vốn ưu đãi. Đến 7-8 năm nữa thì sẽ không còn loại vốn này nữa và Việt Nam phải vay với lãi suất cao. - Nhưng các nhà tài trợ cho vay bao giờ cũng kèm theo những điều kiện? - Mỗi nhà tài trợ có điều kiện khác nhau. Hiện có ba nhà tài trợ chính là JBIC (Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB), sau đó là Cơ quan Hợp tác Phát triển Pháp (AFD) và Ngân hàng KFW của Đức. Trong đó, điều kiện của Ngân hàng Thế giới là trả nợ trong vòng 40 năm, trả phí 0,75% mỗi năm và không phải trả nợ trong 10 năm đầu. Một điều kiện chung là dự án đầu tư phải có hiệu quả. Nếu bạn vay tiền để tiêu vào tiêu dùng cá nhân như mua quần áo, ôtô để con cái bạn sau này phải trả thì thật không công bằng. Nhưng nếu bạn vay tiền để xây nhà máy điện chẳng hạn, nhà máy này còn chạy đến 40-50 năm sau thì con cái bạn cũng được hưởng lợi. - Có tình trạng không quan tâm nhiều về hiệu quả sử dụng vốn vay ODA vì phải đến 40 năm nữa mới phải trả. Phải chăng đang có suy nghĩ tiền ODA là tiền chùa? - Đây là trách nhiệm của Chính phủ. Nhìn chung, chúng tôi kiểm tra và thấy chất lượng các dự án ODA là tốt. Tiền vốn ODA là tiền của người Việt Nam và cần được sử dụng giống như những nguồn tiền khác. Sự minh bạch rất cần thiết dù nguồn tài chính của dự án từ ODA hay những nguồn khác. Nếu dự án nhà máy điện không hoạt động được thì đó là một điều sai trái dù được xây dựng từ vốn ODA, đầu tư nước ngoài trực tiếp hay ngân sách Chính phủ. Theo tôi, đây không phải vấn đề của riêng ODA mà là chất lượng đầu tư công nói chung. - Các nhà tài trợ có tiếng nói nhất định với Chính phủ. Vậy ông đánh giá như thế nào về ảnh hưởng của các nhà tài trợ đến quá trình lập chính sách của Chính phủ? - Chúng tôi nghĩ cải cách doanh nghiệp Nhà nước có thể chuyển động nhanh hơn. Nhưng chúng tôi hiểu chính phủ quyết định tốc độ của cải cách. Bây giờ chúng tôi có thể tranh luận về những vấn đề trước đây không thể, như vấn đề chống tham nhũng tại Hội nghị Các Nhà tư vấn và cách chính phủ bàn về vấn đề này một cách công khai. Sáu, bảy năm trước, đây là điều không thể. Năm năm trước chúng tôi cũng không thể bàn về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Về cải cách ngân hàng, cuộc tranh luận đã sâu hơn năm năm trước. Tất nhiên trong mối quan hệ chung, chính phủ không luôn luôn đồng ý với chúng tôi và chúng tôi cũng thế. Nhưng không khí chung là sự lắng nghe lẫn nhau và đó là dấu hiệu của sự phát triển. Đôi khi Chính phủ nói không áp dụng những điều chúng tôi nói vì một số lý do nào đó và chúng tôi hiểu. Đôi khi tôi thay đổi quan điểm của mình và đó là điều tốt. - Ví dụ như thay đổi quan điểm về vấn đề gì? - Ví dụ như đưa điện tới mọi người. Quan điểm chung của tôi vài năm trước là người dân phải trả tiền điện mà họ dùng để có hệ thống cung cấp điện bền vững về tài chính. Nhưng khi đến một số làng xã vùng sâu, vùng xa, tôi thấy những trường học cần điện cho học sinh nhưng dân làng quá nghèo, không thể trả tiền điện. Nên bây giờ tôi nghĩ rằng cần phải trợ cấp điện cho những làng, xã này. Nhưng phải làm sao chỉ trợ cấp cho những người nghèo thôi chứ không phải người giàu ở đô thị. (Theo Saigon Times Daily) |