Gửi tiết kiệm ở Ngân hàng Chính sách. Ảnh: Anh Tuấn |
Trên thực tế, sự hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng cùng với việc huy động ồ ạt từ đầu năm tới nay đã dẫn tới tình trạng thừa vốn khả dụng tại hầu hết các ngân hàng thương mại lớn, đồng thời làm lãi suất thị trường liên ngân hàng tụt xuống thấp hơn lãi suất huy động ngoài thị trường. Trong khi phải chú ý nhiều hơn tới chất lượng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay để hạn chế tỷ lệ nợ xấu phát sinh, nhiều đơn vị đành tìm cách đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động, khoảng 5-6%/năm. Thậm chí, trong mấy tháng qua, Ngân hàng Nhà nước lúc nào cũng sẵn sàng đưa vốn ra với lãi suất thấp, song không một ngân hàng quốc doanh nào đủ lực để tiếp nhận.
Thực tế này đã buộc các "tay đua" phải tự tìm đến điểm dừng. Ngay từ đầu tháng 9, cả 4 đại gia quốc doanh đều đồng loạt hạ lãi suất VND với mức giảm trung bình 0,03-0,07%/tháng. Mạnh tay cắt giảm nhất phải nói tới Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh TP HCM (VCB TP HCM). Sau 5 đợt điều chỉnh hạ liên tiếp, đến nay lãi suất của VCB TP HCM chỉ còn 2,4%; 5,04%; 6,36%; 6,96%; 7,08% và 7,32%/năm lần lượt đối với các kỳ hạn 1; 3; 6; 9 và 12 tháng. Khối ngân hàng cổ phần tỏ ra thận trọng hơn và chỉ dám điều chỉnh với mức nhỏ 0,01-0,02%/tháng. Lãi suất huy động tại các đơn vị này đang phổ biến từ 6,7% đến 8%/năm.
Tuy nhiên theo ông Tiến, dù đã có những đợt cắt giảm, mặt bằng lãi suất tại Việt Nam hiện cao hơn nhiều so với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Mức trung bình lãi suất huy động ngắn hạn 7-8%/năm cũng quá vênh so với lạm phát trong nước. Từ đầu năm đến nay, chỉ số lạm phát của Việt Nam mới đạt 1,9% và dự báo sẽ không vượt quá 3% trong cả năm nay. Nếu tính cả những biến động về tỷ giá, lạm phát, lãi suất trên thị trường quốc tế thì lãi suất thực của tiền gửi VND vẫn cao hơn khoảng 3-4%/năm.
"Trong bối cảnh kinh doanh hiện tại, nhu cầu đầu tư cho sản xuất không tăng mạnh, lãi suất cho vay 12%/năm cũng là quá cao", ông Tiến nhấn mạnh.
Dù vẫn duy trì lãi suất cơ bản của tháng 10 ở mức 0,625%/tháng (7,5%/năm), song trong văn bản mới đây gửi các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn chỉ đạo các đơn vị theo hướng tiếp tục giảm lãi suất huy động. Bên cạnh chủ trương hỗ trợ vốn, cơ quan này sẽ tiếp tục gây sức ép bằng cách đẩy mạnh giao dịch thị trường mở, tăng thêm giấy tờ có giá để giao dịch. Đồng thời, vẫn duy trì các mức lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu ở mức thấp như đang áp dụng.
"Ngân hàng Nhà nước chỉ chủ động điều hành thị trường bằng các công cụ chính sách tiền tệ. Tất cả những văn bản chỉ đạo đều mang tính cảnh báo chứ không phải mệnh lệnh, ép buộc các đơn vị thực hiện. Họ cần hiểu rằng nguồn vốn không hề thiếu", ông Tiến khẳng định.
Dẫu biết được lợi ích của chuyện cắt giảm lãi suất, song không phải ngân hàng nào cũng dám mạnh tay như VCB. Việc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) chi nhánh TP HCM vẫn duy trì mức huy động cao (8,4%/năm) khiến các đối thủ cạnh tranh khác ngần ngại... động thủ. Khối quốc doanh thì lo ngại dòng vốn sẽ chạy sang các đơn vị cổ phần và các đối thủ khác đến từ nước ngoài nếu cứ mạnh dạn thực hiện theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Đợt huy động 4.500 tỷ đồng trái phiếu công trình sắp tới của Chính phủ cũng làm không ít người lo ngại. Mức lãi suất trái phiếu nội tệ 8,5% là một trong những lý do buộc Agribank chưa thể đưa ra quyết định dứt khoát.
"Lãi suất của một ngân hàng phụ thuộc nhiều vào lãi suất trái phiếu chính phủ, chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước và đặc biệt là nhu cầu vốn vay tại mỗi đơn vị. Nếu Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng cắt giảm thì cũng cần đặt vấn đề ngược lại là xem xét hạ lãi suất trái phiếu", lãnh đạo một ngân hàng cổ phần bức xúc.
Tuy nhiên, theo Vụ trưởng Nguyễn Đồng Tiến, đợt phát hành trái phiếu sắp tới không ảnh hưởng nhiều tới việc huy động tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng. Trái phiếu có lãi suất cao hơn song kỳ hạn lại dài hơn, 5 hoặc 10 năm. Hơn nữa, chính các tổ chức tín dụng là người mua trái phiếu nhiều nhất, phần huy động trong dân chỉ chiếm khoảng 20% (tức chưa đầy 1.000 tỷ đồng).
"Còn chuyện dòng vốn sẽ chảy sang ngân hàng cổ phần, theo tôi, nếu tình trạng này có thật, xét ở một mức độ nào đó lại có lợi cho khối quốc doanh. Các ngân hàng thương mại nhà nước đang giữ một lượng vốn ngắn hạn quá mức cần thiết và phải trả lãi cao. Vì vậy, bớt huy động được ít nào sẽ có lợi chừng ấy", ông Tiến bình luận.
Giới quan sát nhận định, trong khi các ngân hàng Việt Nam đau đầu với những hậu quả để lại sau cuộc chạy đua vừa qua thì các ngân hàng nước ngoài lại đang ung dung hưởng lợi. Họ được phép tăng tỷ lệ huy động vốn VND đúng vào lúc cơn sốt lãi suất bắt đầu hạ nhiệt. Giờ đây, với những mưu lược kinh doanh khôn ngoan sẵn có, họ hoàn toàn có thể mua lại vốn tiền đồng của các ngân hàng chủ nhà với giá rẻ.
Song Linh