Theo các chuyên gia của ITC dệt may Việt Nam sẽ khó khăn trong 2005 |
Theo ông Matthias Knappe, năm tới, dệt may Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Cụ thể thị trường Mỹ, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với cuộc cạnh tranh về giá do các nước thành viên của WTO xuất hàng vào đây không bị áp hạn ngạch. Ở thị trường Nhật Bản, tuy giá không giảm, phi hạn ngạch nhưng khó hơn Mỹ nhiều do đòi hỏi cao về kỹ thuật và chất lượng.
Hệ thống phức tạp của hiệp định thương mại cũng là một vấn đề gây cản trở lớn bởi Việt Nam không có nhiều ưu ái và thuận lợi như các nước khác về chi phí sản xuất, nguồn nguyên phụ liệu và chi phí nhập khẩu... Ví dụ: Các nước châu Á khi họ nhập 14 USD quần áo thì cũng xuất được 1 USD vải. Và kể cả những nước kém phát triển cũng làm được điều này, có thể xuất 1 USD vải khi nhập 234 USD quần áo nhưng Việt Nam thì không thể làm được điều này.
Bên cạnh đó, các biện pháp thương mại như luật chống bán phá giá cũng gây ảnh hưởng đến việc xuất khẩu hàng hóa của dệt may Việt Nam. Vì khi các nước thành viên WTO được bãi bỏ quota, họ sẽ xuất sang thị trường Mỹ ồ ạt và lúc đó Mỹ có thể bắt đầu đưa ra luật bán phá giá để bảo vệ ngành dệt may trong nước. Ông Matthias Knappe cho biết, các nước trên thế giới chỉ khi mới nghe tin hàng của mình kiện vì bán phá giá là lập tức đi điều tra để tìm giải pháp. Điều này lại quá khó với Việt Nam, do chưa có chính sách thị trường như các nước nhưng khi đã gia nhập được vào WTO thì phải chịu những chính sách chung.
Áp lực chính trị cũng là một mối lo lớn, bởi nó thể hiện rất rõ giữa các nước lớn so với nước bé. Do khách hàng của các nước đều có cùng quan điểm là duy trì hạn ngạch hoặc khi hạn ngạch không còn thì bắt buộc phải lobby để giữ được thị trường ở mức cố định. "Hiện nay, chiến lược này cũng không còn là vấn đề riêng lẻ của một quốc gia nào mà là tình hình chung của nhiều quốc gia hợp lại. Vì vậy, những nước nhỏ, yếu thế cạnh tranh sẽ bị thua thiệt", ông Matthias Knappe nói. Thuế nhập khẩu cũng là vấn nạn lớn, vì hiện nay mức thuế này được áp cho doanh nghiệp nhập hàng dệt may là rất cao (35%).
Từ những thách thức trên, ông Matthias Knappe đưa ra nhiều lời khuyên cho doanh nghiệp Việt Nam là phải biết hợp tác chặt chẽ với nhau không những chỉ trong nước mà ngay cả các nước khu vực lân cận. Vì đối với các nước trong khu vực tuy một mặt là đối thủ cạnh tranh, nhưng mặt khác lại bổ sung cho doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề cung cấp nguyên phụ liệu. Ví dụ, chi phí vải của một cái áo sơ mi dệt tại Banglades chỉ mất 59%, phụ liệu 16%, chi phí quản lý là 8%, 7% chi phí khác và 10% còn lại là lợi nhuận. Do đó nếu tiết kiệm được 10% chi phí xuất khẩu thì lợi nhuận thu được tăng lên 16%. Nhưng nếu giảm được 10% chi phí nhập khẩu vải thì chi phí lợi nhuận tăng lên chóng mặt 60%.
Ông David Birnbaum, chuyên viên của ITC, cho rằng, để đối đầu với những thách thức trên doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải gia tăng dịch vụ làm sao cho tốt hơn để thu hút đơn đặt hàng. Vì bước vào 2005 là thời điểm có nhiều người quan tâm đến vấn đề chất lượng, sự tin tưởng và uy tín của dịch vụ. Nhưng theo David Birnbaum thì doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự chuẩn bị nhiều về vấn đề này. Đối với nguồn nguyên phụ liệu, trong điều kiện thị trường tự do vải tăng thị phần sẽ dẫn đến chi phí sản xuất giảm, lúc này có thể tăng lợi nhuận.
Thứ trưởng Thương mại Lê Danh Vĩnh cũng cho biết, Bộ đã có kế hoạch xây dựng chợ đầu mối cung ứng nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, nhằm giúp doanh nghiệp đỡ tốn chi phí nhập khẩu nhưng cho tới nay vẫn chưa triển khai được do chưa đủ kinh phí.
Bà Trần Thị Trung Thu, Giám đốc văn phòng đại diện tại Việt Nam thuộc công ty Mast Industries (Far East) cũng đã chia sẻ những chiến lược sản xuất và đặt hàng cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đó là doanh nghiệp phải biết đánh giá từ góc độ thế giới như quan hệ thương mại, năng lực chuyên môn, đồng thời phải biết tuân thủ các qy định luật lệ của nước sở tại. Doanh nghiệp cũng phải đánh giá được khách hàng của mình xem ai là đối tác chính, nhằm thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với họ.
Thùy Vinh