Điều khoản đầu tiên làm nhiều người ngạc nhiên và bức xúc là quy định chỉ có doanh nghiệp nhà nước hoặc công ty cổ phần mà nhà nước chiếm cổ phần chi phối mới được phép họat động trong việc cung cấp dịch vụ kết nối Internet. Như vậy, Dự thảo đã khẳng định việc duy trì tình trạng độc quyền hiện nay trong lĩnh vực này.
Hơn thế, theo quy định hiện hành, dịch vụ Internet được xem là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Theo đó, Dự thảo đã nêu rõ, các doanh nghiệp muốn kinh doanh dịch vụ Internet ngoài việc đăng ký kinh doanh thì đều phải xin phép cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền với một quy trình thủ tục... hết sức phức tạp.
Cụ thể, đối tượng phải nộp 3 bộ hồ sơ cho cơ quan cấp phép, trong đó phải ghi rõ lý lịch của các thành viên phụ trách việc cung cấp thông tin có xác nhận của cơ quan chủ quản, bảng giá cước, đề án cung cấp dịch vụ.... Nếu hồ sơ xin cung cấp dịch vụ kết nối Internet hoặc cung cấp dịch vụ Internet thì do Tổng cục Bưu điện cấp phép, xin cung cấp dịch vụ Internet dùng riêng thì do các bưu cục khu vực cấp, xin cung cấp dịch vụ thông tin Internet do Bộ Văn hóa Thông tin cấp. Hồ sơ sau đó còn phải gửi cho Bộ Công an để được xét duyệt về mặt an ninh và theo quy định, trong vòng 30 ngày, việc cấp phép mới được xem xét quyết định.
Ông Nguyễn Đình Cung, Thư ký tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp, cho rằng thực chất của dự thảo nghị định này là nhằm hợp thức hóa gần như toàn bộ giấy phép "con" hiện hành mà Tổ công tác đang đề nghị bãi bỏ. Không những vậy, dự thảo còn đặt ra một số điều khoản để Nhà nước can thiệp quá sâu vào những vấn đề mà đáng lẽ sẽ thuộc vào sự điều chỉnh của giá cước dịch vụ Internet...
Nhiều ý kiến tỏ ra băn khoăn về điều 17 của Dự thảo nói rằng, căn cứ vào chiến lược quy hoạch phát triển Internet tại Việt Nam, Tổng cục Bưu điện công bố điều kiện cấp phép, số lượng giấy phép cung cấp dịch vụ truy cập và dịch vụ kết nối Internet tại Việt Nam; còn Bộ Văn hóa Thông tin quy định số lượng giấy phép cung cấp dịch vụ thông tin trên Internet... Câu hỏi được đặt ra là việc quy định số lượng giấp phép có phải là nhằm tăng cường hơn nữa cơ chế xin - cho và tạo thêm quyền cho các cơ quan cấp phép???
Trái với Dự thảo nghị định, nhiều ý kiến đề nghị Nhà nước nên quy định cụ thể các điều kiện trong việc sử dụng hoặc kinh doanh Internet và buộc họ tuân theo khi thực hiện, tránh giấy phép "con", gây khó dễ cho người dân cũng như doanh nghiệp.
Đồng tình với ý kiến này, ông Nguyễn Đình Cung cho rằng, Nhà nước không cần thiết phải quản lý bằng giấy phép "con" mà chỉ cần yêu cầu đối tượng sử dụng và kinh doanh dịch vụ Internet làm thủ tục đăng ký với cơ quan chủ quản là đủ. Ông bức xúc: "Lẽ nào muốn xây dựng một trang web để phục vụ cho công việc của mình mà cũng phải xin phép!"
Xung quanh việc sử dụng và kinh doanh Internet, ông Phạm Hồng Hải, Vụ phó Vụ chính sách và ông Trần Minh Tâm, Trưởng phòng Mạng thông tin Internet của Tổng cục Bưu điện, có ý kiến như sau:
- Dự thảo đưa ra như vậy có phải cơ quan quản lý đang hồi phục lại giấy phép con?
Trần Minh Tâm: Khi cấp giấy phép, chúng tôi phải đảm bảo cho khách hàng những nhà cung cấp có uy tín chứ! Nếu không uy tín, cấp phép xong rồi làm được mấy bữa lại thôi thì phức tạp.
- Nhiều người đang rất băn khoăn về tình trạng độc quyền của Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ Internet và Dự thảo cũng đang theo chiều hướng đó.
Phạm Hồng Hải: Việc xây dựng Dự thảo phụ thuộc nhiều vào một số văn bản pháp luật khác. Chẳng hạn, Luật Đầu tư nước ngoài chỉ cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào lĩnh vực bưu chính viễn thông dưới hình thức liên doanh với bên Việt Nam. Mặt khác, việc cởi mở phải tuân theo lộ trình về chiến lược phát triển Internet của Chính phủ.
- Nhưng tại sao lại phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và tư nhân?
Phạm Hồng Hải: Các doanh nghiệp ở lĩnh vực khác có thể phá sản một cách dễ dàng, nhưng còn các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Internet phá sản sẽ gây ra hậu quả phức tạp.
Trần Minh Tâm: Tư nhân có thể đảm bảo về vốn, nhưng khả năng về mạng lưới và con người thì chưa ổn.
Pháp Luật TPHCM, 7/7