Tương tự, tại Hà Nội là 95 USD/tháng, tăng 2 USD (mức giá này đang thấp hơn một số nước). Giá lao động ở Singapore là 421 USD/tháng, Bangkok là 141 USD/tháng, Kuala-Lumpur là 198 USD/tháng.
Vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam đến cảng Yokohama Nhật Bản đang có mức giá cao nhất so với khu vực châu Á là 1.500 USD/container loại 40 feet trong năm 2001, tăng 100 USD so với năm trước. Trong khi giá vận chuyển Bangkok đến cảng Yokohama chỉ 1.350 USD/container cùng loại. Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển, đội tàu biển Việt Nam chỉ chiếm được 12% thị phần.
Giá đầu vào trong lĩnh vực nông nghiệp rất cao. Tỷ lệ chi phí cho sản xuất lúa gạo chiếm từ 60 đến 70% giá thành sản phẩm. Cái gọi là rẻ chủ yếu do giá trị công lao động nông nghiệp thấp. Tương tự, chi phí sản xuất mía nguyên liệu chiếm từ 50%-55% tổng chi phí, nếu tính cả tỷ lệ bảo hộ thì giá đường của Việt Nam luôn lớn gấp 2 lần giá đường thế giới. Mặc dầu là nước nông nghiệp, nhưng giá thức ăn cho chăn nuôi công nghiệp còn cao hơn nước công nghiệp phát triển.
Giá lợn hơi đủ tiêu chuẩn xuất khẩu ở đồng bằng sông Hồng là 750 USD/tấn, ở đồng bằng sông Cửu Long từ 900 đến 1.000 USD/tấn. Trong khi mức giá bình quân tại Trung Quốc là 650 USD/tấn và tại Mỹ từ 600-800 USD/tấn với tỷ lệ nạc cao hơn.
Thế độc quyền vẫn đang thuộc về Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam ở lĩnh vực khai thác các dịch vụ viễn thông cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng, trừ Internet. Các doanh nghiệp nước ngoài hiện chỉ được tham gia vào thị trường viễn thông Việt Nam thông qua hình thức hợp tác kinh doanh (BCC). Đây là hình thức mà không tạo ra pháp nhân mới, tức là không tạo ra đối thủ cạnh tranh mới.
Vẫn chưa có sự thông thoáng trong chính sách đối với lĩnh vực dịch vụ hàng không. Cơ chế hiện hành chỉ cho phép thành lập tối đa hai liên doanh và bên nước ngoài không được góp quá 40% vốn pháp định. Chỉ có các hãng hàng không nước ngoài đang được phép khai thác đường bay đến Việt Nam mới được cung cấp dịch vụ hỗ trợ vận tải hàng không. Cả nước mới có 4 hãng cung cấp dịch vụ vận tải hàng không. Ước tính giá trị xuất khẩu dịch vụ này trong năm nay đạt 321 triệu USD, xấp xỉ bằng năm 2001. Thế nhưng, tổng kim ngạch nhập khẩu loại dịch vụ này lên tới 807 triệu USD và thực chất chủ yếu là mua thêm máy bay chứ không phải là dịch vụ.
Những bất ổn trong lĩnh vực tiền tệ dễ xảy ra khi mà các tổ chức tín dụng Việt Nam đang nắm giữ gần 90% thị phần tiền gửi, riêng ngoại tệ chiếm 85% và không bị giới hạn bởi giấy phép về các loại tiền gửi. Thị phần nhỏ nhoi còn lại là của các chi nhánh ngân hàng nuớc ngoài. Việc phân bổ thị trường quá chênh lệch ở lĩnh vực nhạy cảm này có thể dẫn tới rủi ro khi thực hiện cam kết hội nhập tài chính, ngân hàng với khu vực và thế giới.
(Theo Econet)