Hồ sơ xin cấp hạn ngạch phải gồm đơn, khai báo thiết bị, giấy tờ hải quan... |
Trường hợp như công ty A không phải là hiếm. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ phía Nam đều phản ánh, tiêu chuẩn quota dệt may xuất sang thị trường Mỹ mà họ được nhận chỉ đáp ứng 20-30% năng lực sản xuất. Số còn lại, phải chạy vạy bằng nhiều cách để có thể thực hiện hợp đồng đã ký và đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động.
Thuật ngữ visa chỉ con dấu do các phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực, được Bộ Thương mại ủy quyền, cấp cho mỗi lô hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ thuộc 38 Cat bị áp hạn ngạch. Nó bao hàm phần mô tả về lô hàng, chứng nhận nước xuất xứ và cho phép lô hàng được khấu trừ vào mức hạn ngạch đang áp dụng cho Việt Nam. Theo quy định mới, hàng dệt may sang Mỹ phải được cấp visa điện tử. |
Một mùa dệt may mới thường bắt đầu bằng việc bàn bạc quy chế phân bổ quota. Cơ chế này phải được hoàn thiện muộn nhất là vào tháng 8 của năm trước, làm căn cứ để tổ điều hành liên bộ (Bộ Thương mại, Công nghiệp và Hiệp hội Dệt may Việt Nam) tính toán tiêu chuẩn quota phân cho mọi đối tượng doanh nghiệp. Đây cũng là cơ sở để mỗi doanh nghiệp tự nhẩm tính định mức xuất khẩu của mình và tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng làm hàng cho năm tới. Sau 15-30 ngày công bố quy chế, liên bộ sẽ bắt đầu thông báo phân bổ và doanh nghiệp có thể căn cứ vào đó để làm đơn, gửi hồ sơ xin được cấp hạn ngạch. Nếu mọi việc suôn sẻ, trong vòng 8 giờ làm việc, phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực (Bộ Thương mại) sẽ hoàn tất cấp visa tương ứng với tiêu chuẩn hạn ngạch cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, sự suôn sẻ ấy hầu như chẳng bao giờ đến với doanh nghiệp. Cứ mỗi dịp phân quota, tại hàng lang Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Thương mại) dường như đông hơn và lúc nào cũng vang lên tiếng bước chân vội vã, cập rập của những ông giám đốc, của các cán bộ thị trường đến từ nhiều doanh nghiệp trong cả nước. Giám đốc Công ty may Maika Phúc Sinh từng không dưới một lần phải đáp chuyến bay sớm từ TP HCM ra Hà Nội để xin hạn ngạch, cứu lô hàng sẽ phải giao vào buổi trưa. Những dòng mồ hôi tuôn dài trên gương mặt đỏ lựng, tóc tai dính bết vào trán, tay lăm lăm một mớ hồ sơ với đủ thứ giấy tờ, từ đơn đặt hàng, khai báo thiết bị, đơn xin cấp phép. Vừa đứng chờ đến lượt, ông Phúc Sinh vừa liên tục gọi điện về cơ quan để yêu cầu nhân viên gửi thêm giấy tờ. Cạnh ông là một anh chàng cán bộ thị trường của công ty dệt may mãi trên Phú Thọ. Mớ hồ sơ anh cầm cũng đã nhàu nát sau nhiều lần luân chuyển từ phòng này sang phòng khác. Rồi anh chạy lên, chạy xuống, photo, nhận fax vậy mà vẫn nhận được câu trả lời giấy tờ chưa hợp lệ.
Vụ tiêu cực>Phó thủ tướng Vũ Khoan: Tiêu cực không phải do cơ chế
>Bộ trưởng Thương mại: Chưa hề nhận được đơn tố cáo tiêu cực
>Đã bắt 9 người trong đường dây phân bổ quota dệt may
>Bộ Thương mại sẽ kỷ luật nghiêm các cá nhân vi phạm
>Khó giám sát tiêu cực trong phân bổ quota dệt may
>Vụ phó Xuất nhập khẩu Bộ Thương mại bị bắt
>'Cò' hạn ngạchĐể tránh sự cực nhọc ấy, không ít doanh nghiệp đã chọn con đường ít gian nan hơn nhưng mạo hiểm hơn gấp nhiều lần: mua quota. May mắn thì nhờ vả các công ty quen thân trong nước, xem họ có thừa chút nào để vay mượn. Song đa phần đều phải cầu viện tới "cò", nơi luôn sẵn sàng cung ứng các thông báo giao hạn ngạch đã được đóng dấu và ký khống (để trống tên doanh nghiệp và số lượng hạn ngạch). Muốn bao nhiêu cũng được, miễn là chịu phí cao, bên mua phải trả cho bên bán một khoản tiền tính theo đơn vị hàng. Hiện các cơ quan chức năng chưa nắm chính xác giá mua hạn ngạch ở mỗi chủng loại hàng là bao nhiêu. Có người đồn thổi, giá mua quota cao gấp 20 lần giá gia công. Đặc biệt ở Cat nóng 338/339 (áo T-shirt), giá mua mỗi tá có thể lên tới 17-20 USD, thậm chí còn cao hơn nếu "cò" biết doanh nghiệp đang cần giao hàng gấp.
Tuy nhiên, theo điều tra của VnExpress, chi phí cho quota (kể cả phí chính thức và các chi phí "đen") thường chiếm 1/3-1/2 đơn giá gia công mà doanh nghiệp ký với khách hàng. Giá gia công cao nhất hiện nay thuộc về mã hàng jacket, khoảng trên 4 USD/chiếc và phí mua quota cho Cat này ngoài chợ đen thường dao động từ 1 đến 1,5 USD/chiếc. Khi ký hợp đồng, bao giờ doanh nghiệp cũng phải tính toán đơn giá làm sao vừa đủ sức hấp dẫn với đối tác, vừa đủ trang trải các chi phí sản xuất. "Theo quy định, trong 100% đơn giá, doanh nghiệp có quyền sử dụng tối đa 52% để chi trả lương cho nhân viên. Phần còn lại trang trải các chi phí quota, bao bì, đóng gói, phí vận chuyển hàng từ xưởng sản xuất ra cảng và vô số loại phí khác. Nhiều khi phí quota quá lớn, chúng tôi đành phải cơ cấu lại phần đơn giá tính cho người lao động. Đành phải làm như vậy thôi, còn hơn là không có việc cho chị em làm", lãnh đạo một doanh nghiệp dệt may lớn ở phía Bắc tâm sự.
Tham gia vào đường dây môi giới hạn ngạch thường là những nhân viên kế toán, cán bộ thị trường của các công ty sản xuất và xuất khẩu dệt may. Những người này nắm rõ nhu cầu của công ty mình và cũng biết rõ đơn vị nào đang cháy hạn ngạch, vì vậy, luôn sẵn lòng môi giới chuyển tiêu chuẩn từ doanh nghiệp mình sang cho đối tác. Điều đáng nói là những công ty đi bán luôn thừa ra một lượng hạn ngạch khổng lồ so với năng lực sản xuất và nhu cầu xuất hàng của họ. Thậm chí, có đơn vị không hề có nhà xưởng sản xuất, chỉ chuyên về xuất nhập khẩu, cũng được phân quota với mức mà vô số doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn chỉ dám mơ ước. Cũng có trường hợp, nhân viên làm liều, dù biết công ty mình đang thiếu hạn ngạch để gia công, vẫn tuồn sang đơn vị khác.
Theo các doanh nghiệp, chính những người như ông Vụ phó Xuất nhập khẩu Lê Văn Thắng và một số chuyên viên đắc lực khác đã giúp tạo nên đường dây mua bán và chạy chọt hạn ngạch hoàn chỉnh. Họ có công lớn trong việc tạo ra những hệ số phân bổ quota (thường gọi là hệ số k) để làm sao có thể lấy tiêu chuẩn của doanh nghiệp này dồn sang doanh nghiệp khác một cách hợp lý hoặc thậm chí tạo ra những hệ số khó hiểu để không ai có thể thắc mắc được. Rồi từ đó mới nảy sinh tình trạng, kẻ ăn không hết người lần chẳng ra. Các tiêu chuẩn hạn ngạch thưởng, hạn ngạch ưu tiên vùng xâu vùng xa cũng là khe hở để những người này làm xiếc số liệu và... "bốc thuốc không đúng bệnh".
Khi mắt xích đầu tiên trong đường dây mua bán hạn ngạch được phơi bày, doanh nghiệp dệt may có cơ hội bày tỏ những ấm ức phải chịu đựng bấy lâu. Nhưng khi lý giải tại sao phải tham gia vào đường dây ấy mà không tố cáo, họ chỉ biết nói vì hạn ngạch thiếu, vì cơ chế khó khăn và vì không có bằng chứng cụ thể. Thậm chí có người mạnh dạn đến trình bày với cơ quan điều tra lại chẳng ngại ngần tuyên bố, vì không chen chân được vào đường dây ấy nên phải đi tố cáo. Còn những người làm quản lý thì quy trách nhiệm cho cá nhân vi phạm và cho rằng phẩm chất của các cán bộ phân bổ quota dệt may không vững vàng trước sự cám dỗ của đồng tiền.
Trong khi đó, những người công nhân dệt may, những người phải ngồi miết bên chiếc máy 10 tiếng đồng hồ mỗi ngày, lại chưa bao giờ biết chính xác số lương bèo bọt mà mình được nhận mỗi tháng chiếm bao nhiêu phần trăm trong đơn giá gia công ký kết với khách hàng. Họ cũng chẳng có nhiều thời gian rỗi để chú ý tới chuyện thiên hạ mua bán hạn ngạch thế nào.
Quota (hạn ngạch) dệt may là định mức xuất khẩu phân cho mỗi doanh nghiệp sản xuất trong ngành dệt may. Doanh nghiệp chỉ được phép xuất khẩu với định mức tương ứng với lượng quota mà họ nhận. Hai thị trường hiện còn áp hạn ngạch dệt may là Mỹ và EU, song họ cũng chỉ áp với một số Cat nhất định. Ví dụ, thị trường Mỹ chỉ áp hạn ngạch với 38/120 chủng loại hàng. Con số này ở thị trường EU là 10/61. |
Văn Thanh
Độc giả có thể tham gia ý kiến tại đây: