"Tôi vừa mua gần 100 triệu đồng cổ phiếu của một công ty khá lớn ở Hà Nội bởi năm ngoái, đơn vị này đã chia cổ tức tới hơn 6%. Nay các ngân hàng nâng lãi suất lên gần 8%/năm, thậm chí có nơi cao hơn. Tôi đang phân vân không biết có nên bán lại số cổ phiếu này để gửi tiết kiệm", anh Tuấn, một nhân viên kinh doanh ở Hà Nội tâm sự. Nỗi lo của anh cùng nhiều nhà đầu tư khác càng lớn dần khi cuộc đua tăng lãi suất ngân hàng ngày một nóng bỏng. Một số chuyên gia cảnh báo, cơn sốt này có thể ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường, tác động tới tâm lý đầu tư cũng như giá chứng khoán. "Đợt tăng lãi suất tiết kiệm hồi nửa cuối năm 2002 và nửa đầu năm 2003 là một trong nhiều nguyên nhân làm ảm đạm thị trường chứng khoán. Khối lượng giao dịch giảm, chỉ số VN-Index cũng liên tục rớt", bà Nguyễn Thị Bích Liên, Giám đốc Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương nhận định. Cũng theo bà Liên, trong điều kiện bình thường, cổ tức thấp và độ rủi ro cao luôn là yếu tố khiến các nhà đầu tư băn khoăn mỗi khi mua cổ phiếu, nay lãi suất ngân hàng tăng lên, sẽ ảnh hưởng nhiều đến quyết định của giới đầu tư. Bên cạnh đó, lãi vay tăng lên sẽ góp phần làm đội lên chi phí đầu vào và gây khó khăn cho doanh nghiệp niêm yết. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến không đồng tình với nhận định trên. Một cán bộ giao dịch của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá mới và nhỏ nên không bị chi phối nhiều bởi các yếu tố của nền kinh tế. "Nếu như ở các nền kinh tế phát triển, GDP tăng, tỷ giá tăng hay lãi suất tăng, sẽ tác động ngay lập tức tới thị trường chứng khoán thì ở Việt Nam sự ảnh hưởng qua lại đó hầu như không lớn lắm", ông phân tích. Theo ông, đem so sánh lãi suất với cổ tức để kết luận lãi suất tăng làm giao dịch chứng khoán chậm lại là không có cơ sở. "Hiện bình quân cổ tức trên thị giá ở Việt Nam vào khoảng hơn 5%, thấp hơn so với mặt bằng lãi suất. Nhưng cổ tức không phải là tất cả mối quan tâm khi người ta đầu tư vào cổ phiếu. Mỗi người, khi nắm giữ một cổ phiếu đều có những mục đích của riêng mình", ông nói thêm. Cũng thừa nhận quy mô thị trường còn nhỏ, các chuyên gia của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho rằng lãi suất ngân hàng tăng có thể chỉ là một trong rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến diễn biến giao dịch. Theo các chuyên gia này, nguyên lý đầu tư cổ phiếu là dài hạn và phải căn cứ vào tình hình hoạt động cũng như tăng trưởng của các công ty. "Nếu đầu tư chứng khoán chỉ với mục đích hưởng cổ tức thì không chuẩn. Ở các nước phát triển, cổ tức rất thấp nhưng người ta vẫn chơi chứng khoán rất nhiều. Khi doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, người ta không dùng toàn bộ hoặc phần lớn lợi nhuận để chia cổ tức mà tái đầu tư, nhờ vậy giá trị cổ phiếu sẽ tăng lên", một cán bộ của Uỷ ban nhận định. Vị cán bộ này cũng cho rằng phần lớn giới đầu tư thường quan tâm tới tình hình hoạt động của công ty mà họ định đầu tư mua cổ phiếu, xem họ làm ăn có hiệu quả hay không, có kế hoạch phát triển dài hạn hay không. "Mỗi khi quyết định lựa chọn phương thức đầu tư, người ta có thể băn khoăn liệu gửi tiền vào ngân hàng, mua đất đai, vàng, đôla Mỹ hay chứng khoán thì có lợi hơn. Đấy là quyền của mỗi người. Có thể lãi suất tăng lên sẽ khiến một bộ phận các nhà đầu tư chứng khoán dồn tiền vào ngân hàng. Nhưng đó chỉ là một phần rất nhỏ", ông nói. Theo ông, gốc của thị trường chính là hoạt động của các công ty niêm yết, vấn đề lúc này là phải làm thế nào để thị trường hấp dẫn hơn, tăng nhiều hàng có chất lượng hơn và các chính sách của cơ quan quản lý cũng phải được cải thiện. "Mức độ rủi ro của cổ phiếu cũng cao nhưng có một thực tế là đầu tư vào ngân hàng hiệu quả hơn so với đầu tư vào một công ty hoạt động yếu, song sẽ không thể sinh lời bằng đầu tư vào một công ty hoạt động mạnh", ông phân tích. Song Linh |