Một trong nhưng ưu điểm lớn nhất trong việc điều hành kinh tế Việt Nam trong 3 năm qua, theo đánh giá của WB là cơ quan quản lý đã không để khủng hoảng ngân hàng nổ ra, bất chấp những tác động xấu từ kinh tế thế giới cũng như những bất ổn riêng của nền kinh tế.
Có được những kết quả này, chủ yếu là nhờ chính phủ đã quyết tâm phản ứng kịp thời trước sự thay đổi của tình hình kinh tế. Trong vòng chưa đầy ba năm, WB cho rằng kinh tế Việt Nam đã chuyển từ tình trạng tăng trưởng đều đặn sang phát triển quá nóng, ổn định hóa, kích cầu và cuối cùng là tái cân bằng nền kinh tế.
WB đánh giá cao việc Việt Nam không để khủng hoảng ngân hàng diễn ra trong gần 3 năm qua. Ảnh minh họa: Hoàng Hà |
Khi tình hình thay đổi, Chính phủ đã không mất nhiều thời gian để điều chỉnh chính sách. Trong một số trường hợp, sự thay đổi đòi hỏi sử dụng các biện pháp không chính thống, chẳng hạn như khi sử dụng trái phiếu bắt buộc để xử lý nốt những khoản chưa thanh toán và chấm dứt tình trạng bong bóng giá tài sản, hay như khi sử dụng chương trình hỗ trợ lãi suất cho phép các doanh nghiệp nhanh chóng trả những món nợ mà họ đã phải vay với những điều khoản hết sức khắc nghiệt.
Gần đây hơn, gói kích cầu rất lớn, kết hợp chương trình miễn giảm thuế với tăng chi tiêu chính phủ và tăng trưởng tín dụng nhanh đã thành công trong việc kích thích cầu nội địa và duy trì tăng trưởng kinh tế. Thành công này còn đáng kể hơn nếu biết rằng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vẫn chiếm khoảng 67% GDP ngay khi bị cuộc khủng hoảng tấn công trong năm 2009.
Tuy nhiên, theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam còn có thể làm được tốt hơn thế, bởi các biện pháp phi chính thống mà Chính phủ áp dụng, tuy tích cực nhưng lại phải trả giá và thường bị thị trường hiểu lầm do không phải lúc nào cũng có thể đưa ra lý giải rõ ràng cho các chính sách này.
Một trong những ví dụ được WB đưa ra là sự bất định của thị thường trước các thông tin về gói kích cầu: báo cáo chồng chéo, sự không rõ ràng về việc ngân sách Nhà nước sẽ gánh các khoản chi phí nào trong gói kích thích và việc thiếu công khai về nguồn lực dành để tài trợ thâm hụt rất có thể sẽ gây ra những lệch lạc trên thị trường.
Bên cạnh đó, thị trường luôn thiếu thông tin về dự trữ ngoại hối quốc tế, gây ra nỗi lo về tính bền vững của chính sách tỷ giá. Thị trường kỳ vọng mức độ mất giá của đồng tiền lớn hơn dự kiến trong phần lớn thời gian của năm 2009. Phần lỗi và sai số trong cán cân thanh toán lên đến mức quá lớn là 13,1% GDP, chứng tỏ một lượng lớn ngoại hối có tính chất đầu cơ là do các hộ gia đình và các doanh nghiệp - kể cả doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn kinh tế nắm giữ.
Sự trì hoãn không cần thiết trong việc điều chỉnh lãi suất đã khiến Chính phủ phải mất nhiều công sức hơn nhằm ổn định thị trường ngoại hối. Tuy không có khủng hoảng ngân hàng song những bất ổn về kinh tế vĩ mô và thay đổi chính sách trong 2 năm qua cũng đã tạo ra rủi ro cho hệ thống tín dụng.
Một vấn đề khác là thu hút vố đấu tư. VN-Index của thị trường chứng khoán Việt Nam tăng 57% năm 2009 nhưng các doanh nghiệp vẫn không tiếp nhận được luồng vốn đầu tư gián tiếp đáng kể nào. Các nước khác trong khu vực đang chứng kiến việc lên giá đồng bản tệ do thu hút được các luồng vốn vào, trong khi Việt Nam vẫn phải vật lộn để ngăn chặn sự mất giá nhanh của tiền đồng.
Khác biệt giữa kết quả kinh tế trên mức trung bình và sự đánh giá dưới mức trung bình của thị trường cho thấy ý nghĩa quan trọng của việc củng cố kinh tế vĩ mô và cải thiện trao đổi và đối thoại về các lựa chọn chính sách.
Củng cố kinh tế vĩ mô được thể hiện ở việc nâng cao năng lực dự báo ngân sách, phát hành thành công trái phiếu chính phủ theo kế hoạch cũng như tránh tình trạng chậm trễ không cần thiết trong việc điều chỉnh lãi suất.
Trong khi đó, để cải thiện các luồng trao đổi thông tin, WB cho rằng cơ quan quản lý cần cởi mở hơn với một số thông tin như dự trữ ngoại hối… Thu thập và trình bày thông tin hợp thông lệ chuẩn của quốc tế và cung cấp các thông tin này một cách thường xuyên hơn, giải thích rõ ràng cho các biện pháp chính sách phi chính thống hoặc có thể bị thị trường hiểu sai.
Nỗ lực gần đây về việc cố gắng hạ nhanh lãi suất là một ví dụ. Mong muốn có mức lãi suất hợp lý là điều dễ hiểu. Tuy nhiên nếu “ép đẩy” thái quá, Việt Nam sẽ dễ bị hiểu lầm, niềm tin vốn chưa thực sự vững chắc vào tiền đồng có thể suy giảm.
Theo Ngân hàng Thế giới, thiếu sự thông tin rõ ràng với thị trường đang buộc Chính phủ phải theo đuổi quá quyết liệt các đối sách của mình. Lời khuyên của WB dành cho Việt Nam là phải chuyển dịch nhanh quan điểm chính sách khi tình hình kinh tế thay đổi.
Các chính sách bình ổn kinh tế năm 2008 đã "tiêu diệt" tình trạng bong bóng bất động sản và đưa lãi suất quay về mức 0% chỉ trong một vài tháng, nhưng tốc độ này cũng đã phải trả giá bằng các hoạt động kinh tế. Chính sách kích cầu năm 2009 cũng mạnh mẽ và quyết liệt không kém, nhưng kết cục lại là gây áp lực quá nhiều lên dự trữ ngoại hối. Quản lý kinh tế vĩ mô tốt và trao đổi thông tin kịp thời có thể sẽ giúp Việt Nam dần dần tự thoát ra khỏi tình trạng “dò dẫm, bước đi bước dừng” vốn là đặc trưng của các chính sách kinh tế vĩ mô trong 3 năm qua.
Một số đánh giá của WB về kinh tế Việt Nam thời gian qua - GDP tăng 5,3% trong năm 2009 trong đó quý IV đã đạt mức 6,9%. Với mức 5,8%, tốc độ tăng trưởng quý I năm 2010 tuy kém ấn tượng, nhưng chưa có gì khẳng định các ý kiến cho rằng tăng trưởng đang chững lại. - Xuất khẩu năm 2009 giảm, lần đầu tiên kể từ khi tiến hành đổi mới kinh tế, nhưng mức suy giảm vẫn thấp hơn nhiều nước khác trong khu vực. Đến nay, tăng trưởng xuất khẩu đã phục hồi bằng khoảng 30% tốc độ tăng trưởng hàng năm của giai đoạn trước khủng hoảng. - Lạm phát đã giảm từ 19,9% năm 2008 xuống còn 6,5% năm 2009. Mặc dù có một số dấu hiệu đáng lo ngại về khả năng bùng phát lạm phát vào cuối năm 2009 và đầu năm 2010, nhưng cho tới nay, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hàng tháng vẫn dừng ở mức vừa phải. |
Nhật Minh