Theo ông Khiêm, hầu hết các doanh nghiệp địa phương mới chỉ hiểu hoạt động này là để chống hàng giả. Còn các cơ quan quản lý nhà nước thì đa số chưa quan tâm đến vấn đề đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu. “Ngay cả đến những khái niệm về nhãn hiệu, nhãn mác nhiều cán bộ vẫn chưa phân biệt rõ” - ông Khiêm nói.
Kết quả điều tra mới nhất về tình hình xây dựng nhãn hiệu hàng hóa nông sản do Cục tiến hành tại 31 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phía Bắc cho thấy, chỉ có 37/173 doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực nông sản, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu đã đăng ký thương hiệu (khoảng 2% doanh nghiệp đăng ký ở nước ngoài).
Ông Trần Hữu Nam, Trưởng phòng Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), cho biết, hiện Cục còn tồn khoảng 17.000 đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hóa nông sản. Nguyên nhân chính ngoài việc Cục không còn chức năng cấp chứng nhận, thì việc xác định nhãn hiệu hàng hóa nông sản hiện rất phức tạp do doanh nghiệp thường đăng ký tên gọi gắn với vùng, địa phương. “Trong khi đó quy định chi tiết để cấp nhãn hiệu hàng nông sản có tên gọi xuất xứ lại chưa cụ thể”, ông Nam nói.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện hầu hết các mặt hàng nông sản, thực phẩm chế biến… của Việt Nam xuất ra thế giới chủ yếu dưới dạng thô, 90% trong số này phải thông qua trung gian bằng các nhãn hiệu của nước ngoài. Bởi vậy, người tiêu dùng thế giới chưa có khái niệm nhiều về nông sản Việt Nam.
Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2005 là 100% các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các mặt hàng nông sản mũi nhọn xuất khẩu có nhãn hiệu hàng hóa như: gạo, chè, cà phê… Nhiều chuyên gia cho rằng, để nâng cao ý thức trong việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin, tư vấn về xây dựng quảng bá thương hiệu. Với những doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất khẩu yêu cầu này phải là bắt buộc.
Ngọc Quang