Ông Martin Rama |
"Ngay sau khi báo cáo về năng lực cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đưa ra, rất nhiều bài báo đã chăm chăm tập trung phân tích về thứ hạng mà thôi", ông Martin nói. Theo ông, đúng là VN đã rớt hạng từ 60 xuống còn 77 trong năm 2002-2003. Nhưng sự tụt hạng còn khủng khiếp hơn nhiều nếu như so với bảng xếp hạng năm 1998, lúc đó VN xếp hạng 39. Một trong những khía cạnh của vấn đề là số lượng các quốc gia được đưa vào bảng xếp hạng GCI mở rộng thường xuyên. Ông Martin nhấn mạnh, mọi người đừng nên quá chú trọng vào sự thay đổi của từng năm mà nên nhìn vào xu hướng tổng thể. Bảng GCI cho thấy sự sụt giảm về thứ hạng của VN từng năm (hàm ý về sự suy giảm về năng lực cạnh tranh) nhưng thứ hạng so sánh với tất cả các nước trên thế giới thì lại có đôi chút cải thiện.
Theo Martin, GCI chỉ đơn giản là một chỉ số. Các nhà đầu tư một mặt nào đó đánh giá rủi ro khi đầu tư dựa trên sự đánh giá về năng lực cạnh tranh của một nước. Thế nhưng một điều có thể gây tranh cãi là thị phần thu hút FDI trên toàn thế giới của một nước có thể tốt hơn chỉ số về thứ hạng năng lực cạnh tranh. Từ năm 2000 tới nay, thứ hạng GCI của VN lúc tăng, lúc giảm nhưng lượng FDI vào VN thì tăng từ từ tuy không nhiều.
Martin đánh giá việc xác định chỉ số GCI là một chuyện rất thú vị. Ở mức độ tổng hợp nhất, việc xác định GCI dựa trên 3 cột trụ: đánh giá về kinh tế vĩ mô, các thể chế công và công nghệ. Những yếu tố này liên quan tới các chỉ số thường chỉ biến đổi một cách từ từ.
Theo ông, những gì thể hiện trong chỉ số GCI của VN cho thấy, VN tuột dốc không phanh trong thứ hạng về thể chế và công nghệ trong năm 2003-2004. Chỉ số về thể chế của VN trong năm nay là 82 trong khi năm ngoái là 63. Chỉ số công nghệ còn sút giảm mạnh hơn nữa, 92/104 trong khi thứ hạng của năm 2003 là 65.
Nếu như xét về riêng những lĩnh vực này thì có thể kết luận các nước khác đã cải thiện tình hình của họ nhanh hơn. Thế nhưng nếu như đánh giá sâu hơn về lĩnh vực công nghệ thì thứ hạng này chưa hẳn đã đúng vì VN là một nước có tỷ lệ phổ biến công nghệ thông tin nhanh nhất thế giới. Trong thực tế, sự dao động ngắn hạn của chỉ số GCI liên quan nhiều tới chủ đề của câu hỏi điều tra, ví dụ như: "vị trí về công nghệ của quốc gia bạn so với các nước dẫn đầu trên thế giới" hoặc "các công ty ở đất nước bạn có quan tâm, đi đầu trong việc tiếp cận công nghệ mới hay không?".
Cũng theo ông Martin, không cần xếp hạng, VN vẫn phải cải thiện năng lực cạnh tranh. Bản thân chỉ số GCI chưa đủ độ tin cậy để chỉ dẫn ra các quyết định về chính sách ở VN. Nhưng rõ ràng VN vẫn cần phấn đấu trở nên cạnh tranh hơn nữa. Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) có thể làm giúp phần nào với việc tăng tính cạnh tranh trong thị trường hàng hoá và dịch vụ. Hiện tại VN đang gia tăng hội nhập vào kinh tế thế giới. Theo ông, ưu tiên tiếp theo phải là cải cách lĩnh vực tài chính, nhờ đó nguồn vốn có thể được phân phối hiệu quả hơn. Thứ nhất, cần cải thiện mạnh mẽ hơn quản trị các ngân hàng thương mại quốc doanh để các ngân hàng này có thể đánh giá rủi ro tín dụng chính xác hơn và có điều kiện hỗ trợ các dự án đầu tư tốt nhất. Thứ hai, cần kiểm soát tốt hơn hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và nâng cao năng lực giám sát của ngân hàng.
Với góc độ một nhà tư vấn, ông Martin cho rằng, sự phổ biến tràn lan của các loại thuế ưu đãi dành cho nhà đầu tư không phải là cách thức hiệu quả giúp VN trở nên cạnh tranh hơn. Nó chỉ khiến mất đi tính minh bạch, dẫn tới lạm dụng và sụt giảm thu nhập của chính phủ. Một hệ thống thuế đơn giản và có khả năng lường trước, kèm theo vài ưu đãi rõ ràng (ví dụ như ưu đãi cho nhà đầu tư ở vùng núi và vùng sâu vùng xa) có thể thích đáng hơn nhiều.
Như vậy, theo ông Martin, xét về tổng thể chỉ số GCI không nói được nhiều về thực tế của VN. Nhưng VN cần phải làm nhiều hơn để tăng cường vị trí cạnh tranh của mình, thậm chí để trở thành một nước công nghiệp.
(Theo Tuổi Trẻ Chủ Nhật)