Vốn ODA - nợ có vay có trả
Hiện nay, Việt Nam có 25 nhà tài trợ song phương, 19 tổ chức tài trợ đa phương và hơn 300 tổ chức phi chính phủ. Trong đó, dẫn đầu là Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á, chiếm trên 80% tổng số vốn đã cam kết.
Số vốn ODA đã cam kết qua các năm | |
Năm 1993 |
1,81 tỷ USD |
1994 |
1,94 tỷ USD |
1995 |
2,26 tỷ USD |
1996 |
2,43 tỷ USD |
1997 |
2,4 tỷ USD |
1998 |
2,7 tỷ USD |
1999 |
2,8 tỷ USD |
2000 |
2,4 tỷ USD |
2001 |
2,356 tỷ USD |
Tổng số |
21 tỷ USD (trong đó có 1,2 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế) |
Nguồn vốn ODA cam kết tập trung lớn nhất cho các ngành giao thông (chiếm 27,5%, tiếp đến là năng lượng điện (24%), nông - lâm nghiệp, thủy sản (12,74%), y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ - môi trường (11,87%)... Nhiều công trình đã được hoàn thành nhờ nguồn vốn này như nhiệt điện Phú Mỹ, Phả Lại, thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi, nâng cấp quốc lộ 1 A, quốc lộ 5... dự án phát triển cà phê, chè, trồng rừng, xây dựng, chương trình xóa đói giảm nghèo, dự án giáo dục... Có được kết quả này là do Việt Nam đạt được sự tin tưởng của các nhà tài trợ. Lòng tin đó bắt nguồn từ sự ổn định về chính trị - xã hội, từ sự thành công về kinh tế, phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Mặc dù quy mô và tỷ lệ giải ngân mấy năm qua đã cao dần lên, nhưng mức và tỷ lệ giải ngân so với số đã cam kết, ký kết còn thấp. Với mức như vậy nước ta sẽ bị thiệt thòi 3 mặt: chậm huy động công trình đi vào hoạt động đúng tiến độ để góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội; các điều kiện ưu đãi của khoản vay ODA giảm sút do rút ngắn thời gian ân hạn; uy tín về năng lực tiếp thu ODA bị hạn chế trong khi đang có sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút nguồn vốn này của nhiều nước khác.
Có nhiều giải pháp để đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA. Trước hết, về mặt tư tưởng nên làm cho từ nhà quản lý đến người vay hiểu rằng, ODA là một nguồn vốn quý báu, nhưng phần lớn trong số đó là vốn vay. Mà đã vay thì phải có hoàn trả cả vốn lẫn lãi. (Những năm qua nhà nước phải dành 15% ngân sách để trả nợ). Thứ hai, muốn tiếp thu phải có nguồn vốn đối ứng mà vốn đối ứng thì phải được huy động từ nhiều nguồn chứ không chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nước. Thứ ba, tiếp tục đổi mới kế hoạch sử dụng nguồn vốn này nhằm thực hiện đúng các mục tiêu phát triển và công bằng xã hội, phải vừa chủ động tranh thủ các nhà tài trợ, nhưng phải đảm bảo tính tự chủ của quốc gia trên cơ sở làm hài hòa thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ. Thứ tư, ngay bây giờ đã phải thiết kế lộ trình trả nợ nước ngoài để chủ động và bảo đảm tính ổn định và bền vững của quá trình phát triển đất nước.
(Theo Thanh Niên)