Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam gặp phải một vòng lặp "luẩn quẩn", đó là: Khi giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới thì một số đơn vị, cá nhân sẽ mua USD trên thị trường tự do để nhập vàng (chính thức hoặc nhập lậu). Điều này làm tăng tỷ giá trên thị trường tự do nên giá vàng nhập về lại tiếp tục tăng theo tỷ giá mới.
Người dân thấy giá vàng tăng, tỷ giá tăng tức là đồng Việt Nam mất giá nên họ lại đổ xô đi mua vàng hay USD để bảo toàn tài sản, làm tăng nhu cầu vàng và USD. Ngoài ra, giá vàng còn tác động lên giá bất động sản do tài sản này thường được tính theo vàng. Giá vàng cao, giá bất động sản tăng theo, giá các loại hàng hóa khác cũng tăng.
Ông Nguyễn Tuấn Quỳnh. |
Nhìn lại số liệu thống kê: Năm 2006, Việt Nam nhập 91 tấn vàng; năm 2007, nhập 51 tấn vàng và năm 2008 là 90,5 tấn vàng. Trong khi đó, nhu cầu vàng để sản xuất nữ trang tại Việt Nam cũng chỉ khoảng trên dưới 20 tấn mỗi năm. Người ta ước tính tại Việt Nam hiện nay, số lượng vàng vật chất trong dân là trên dưới 500 tấn. Theo ADB, lượng vàng nắm giữ tính bình quân theo mỗi đồng đôla thu nhập tại Việt Nam là cao nhất thế giới. Điều này cho thấy người dân Việt Nam "chuộng" nắm giữ vàng vật chất như thế nào.
Những ngày qua, người dân đang xôn xao về việc Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước trong quý II/2011 phải trình Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do. Theo tôi, đây là một định hướng đúng đắn nhưng cần có lộ trình và chuẩn bị tâm lý cho người dân.
Thời gian qua, vàng miếng đã trở thành một phương tiện thanh toán phổ biến nhưng Nhà nước không kiểm soát được. Việc mua bán, giao dịch, nắm giữ vàng miếng quá dễ dàng đã làm ảnh hưởng đến chủ trương trên đất nước Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, cũng như tác động tiêu cực đến chính sách tỷ giá mỗi khi xuất hiện chênh lệch giá vàng giữa thị trường trong nước và thế giới.
Nhìn sang các nước khác, chúng ta cũng có thể rút ra được những bài học trong việc quản lý thị trường vàng. Những điểm cơ bản mà Việt Nam có thể áp dụng là thay vì người dân nắm giữ vàng vật chất thì họ sẽ nắm giữ "chứng chỉ vàng". Chứng chỉ vàng này do Ngân hàng Nhà nước phát hành, có các loại mệnh giá như 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ, 1 lượng, 2 lượng, 10 lượng...
Người dân mang vàng vật chất tới ngân hàng và sẽ đổi lấy chứng chỉ vàng. Nếu người dân có nhu cầu đầu tư vào vàng thì họ tới ngân hàng và mua chứng chỉ vàng theo giá thị trường. Và khi muốn bán lại thì họ cũng đến ngân hàng và bán chứng chỉ vàng để lấy tiền đồng theo giá thị trường.
Việc sử dụng chứng chỉ vàng có những ưu điểm là an toàn, tiện lợi không sợ vàng giả, vàng thiếu tuổi, thiếu trọng lượng, không mất phí gia công dập ra vàng miếng... Về vĩ mô, nền kinh tế sẽ được lợi vì nguồn vàng trong dân tập trung về ngân hàng, góp phần tăng dự trữ quốc gia và tiết kiệm được USD vì không cần phải nhập khẩu hàng trăm tấn vàng vật chất mỗi năm.
Theo tôi, việc tập trung đầu mối kinh doanh vàng miếng có ưu điểm là hạn chế địa điểm giao dịch, làm giảm đi tính thanh khoản của vàng miếng trên thị trường. Tập trung đầu mối cũng giúp cho Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát được tình hình mua bán vàng miếng. Bất lợi là nếu không có biện pháp quản lý triệt để và phù hợp sẽ tạo ra thị trường vàng "chui", làm méo mó giá vàng.
Tất nhiên, để triển khai thành công chủ trương này, Chính phủ cần phải làm tốt nhiều biện pháp như tạo điều kiện để chứng chỉ vàng mua bán, giao dịch dễ dàng tại các ngân hàng thương mại. Chứng chỉ vàng khi gửi ngân hàng sẽ có lãi còn vàng vật chất thì không được gửi ngân hàng (hoặc được gửi với lãi suất âm), chứng chỉ vàng sẽ được sản xuất và chống giả nghiêm ngặt như tiền giấy... Cuối cùng, đó là công tác tuyên truyền, quảng bá về chứng chỉ vàng và những tiện ích của nó để khuyến khích người dân chuyển từ vàng vật chất sang chứng chỉ vàng.
Tất nhiên, việc cấm mua bán vàng miếng, chuyển sang chứng chỉ vàng chỉ là một giải pháp trước mắt. Để kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định và bền vững, chúng ta cần phải chú trọng đến tính hiệu quả trong đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, phát triển nội lực, hạn chế nhập siêu hàng tiêu dùng và gia tăng giá trị hàng xuất khẩu... cũng như từng bước giảm tình trạng đôla hóa nền kinh tế.
Ông Nguyễn Tuấn Quỳnh, Phó tổng giám đốc Công ty CP Vàng Bạc Đá Quý Phú Nhuận - PNJ