Bài viết gửi VnExpress của ông Phí Đăng Minh, nguyên Vụ phó Vụ Quản lý Ngoại hối (Ngân hàng Nhà nước), đề xuất những điểm cần sửa trong Pháp lệnh Ngoại hối.
Pháp lệnh Ngoại hối được Quốc hội thông qua ngày 13/12/2005, có hiệu lực từ 1/6/2006. Nhìn chung, các quy định của pháp lệnh tiến bộ, nhiều quy định đã sát với thông lệ quốc tế. Sự ra đời của Pháp lệnh Ngoại hối đã đáp ứng được yêu cầu Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Với pháp lệnh này, Việt Nam cho phép tự do hóa các giao dịch vãng lai giữa người cư trú và không cư trú, bao gồm các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, các khoản vay tín dụng thương mại và ngân hàng ngắn hạn, các khoản thu nhập từ đầu tư trực tiếp và gián tiếp…
Việt Nam cũng từng bước mở cửa các giao dịch vốn, như khuyến khích vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, không hạn chế vốn ODA, có cơ chế đặc biệt với vốn FII, tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn và lãi về nước, cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, cho cá nhân được vay vốn nước ngoài, cho các tổ chức là người cư trú cho vay thu hồi nợ nước ngoài…
Những quy định này giúp cho kinh tế xuất, nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam phát triển, giúp cho các dịch vụ về ngoại hối của các ngân hàng thương mại phát triển và đặc biệt là giúp cho các giao dịch vốn phát triển.
Nếu trong điều kiện bình thường, nền kinh tế phát triển ổn định, lạm phát thấp, hệ thống tài chính ngân hàng phát triển mạnh, dự trữ ngoại hối lớn, cán cân thanh toán và cán cân thương mại thặng dư… thì những quy định như vậy là phù hợp.
Song trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, nền kinh tế phát triển chưa thực sự bền vững, lạm phát cao, cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại còn thâm hụt lớn, nếu buông lỏng quản lý ngoại hối sẽ làm cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối, gây sức ép lên tỷ giá, ảnh hưởng đến sự ổn định của thị trường tiền tệ.
"Bộ ba bất khả thi" là một thuật ngữ về tài chính được các học giả phương Tây phân tích và tổng kết thành một lý luận khá phổ biến, trong đó họ khẳng định không một nước nào đồng thời có thể thực hiện được 3 mục tiêu: Giữ ổn định tỷ giá - Tự do hóa giao dịch vốn - Thực hiện các chính sách tiền tệ để ổn định lạm phát. |
Kinh nghiệm của các nước mới phát triển cho thấy chính sách quản lý ngoại hối có vai trò quan trọng, nó không những đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định mà còn góp phần kiềm chế lạm phát. Một số nước vi phạm nguyên tắc về “bộ ba bất khả thi”, buông lỏng quản lý giao dịch vốn khi chưa có đủ điều kiện đã dẫn đến kết quả làm cho nền kinh tế bị suy thoái, lạm phát trầm trọng.
Thông báo số 84, ngày 13/4 của Văn phòng Chính phủ trích dẫn kết luận của Thủ tướng về việc quản lý ngoại tệ, đã nêu rõ: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan thành lập ngay Ban soạn thảo sửa đổi Pháp lệnh Ngoại hối theo hướng quản lý chặt chẽ, nhằm khắc phục tình trạng đôla hóa”. Đây là một thông điệp thể hiện sự quyết tâm của Thủ tướng về điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá trong thời gian tới, tạo cơ sở để kinh tế phát triển bền vững và giữ cho giá cả ổn định.
Vậy những nội dung nào trong Pháp lệnh Ngoại hối cần sửa đổi? Đây là vấn đề lớn, liên quan đến nhiều nội dung vừa sâu vừa rộng, người viết bài này không có đủ điều kiện tiếp cận các vấn đề sâu rộng đó. Trên cơ sở nghiên cứu Pháp lệnh Ngoại hối và thực trạng diễn ra gần đây, xin có một số suy nghĩ ban đầu về những nội dung cần sửa đổi trong Pháp lệnh Ngoại hối.
- Thứ nhất: Cần xem lại các quy định liên quan đến quyền sở hữu ngoại tệ của các tổ chức tín dụng và quyền sở hữu ngoại tệ của tổ chức kinh tế, cá nhân.
Thực tế gần đây cho thấy tổ chức kinh tế và người dân có ngoại tệ thường nắm giữ hoặc để trên tài khoản mà không bán cho ngân hàng, dẫn đến tình trạng ngân hàng thừa ngoại tệ để cho vay nhưng lại thiếu ngoại tệ để bán cho khách hàng có nhu cầu.
Các quy định về quản lý ngoại hối hiện nay thừa nhận quyền sở hữu ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và người dân. Đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu ngoại tệ qua xuất khẩu hoặc dịch vụ phải mở tài khoản ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép và phải chuyển toàn bộ ngoại tệ có được vào tài khoản ngoại tệ (Điều 7, chương II Pháp lệnh ngoại hối). Các tổ chức kinh tế có quyền giữ số ngoại tệ trên tài khoản, tự quyết định bán hay không bán ngoại tệ cho tổ chức tín dụng.
Đối với người dân (cá nhân) cũng vậy, ngoại tệ của người cư trú là cá nhân ở Việt Nam thu được từ các khoản chuyển tiền một chiều được phép cất giữ, mang theo người, gửi vào tài khoản ngoại tệ mở tại tổ chức tín dụng được phép hoặc bán cho tổ chức tín dụng được phép. Nếu là công dân Việt Nam thì được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép (Điều 8, chương II Pháp lệnh ngoại hối).
Như vậy tổ chức kinh tế và cá nhân có quyền chủ động sử dụng số ngoại tệ của mình. Các tổ chức tín dụng có mua được ngoại tệ hay không phụ thuộc vào tổ chức kinh tế và cá nhân có quyết định bán ngoại tệ hay không. Đây cũng là lý do tiền gửi ngoại tệ của tổ chức kinh tế và cá nhân luôn ở mức cao, năm 2010 tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế là 10,78 tỷ USD, tiền gửi ngoại tệ của dân cư là 10,64 tỷ USD.
Trong khi quyền sở hữu ngoại tệ của tổ chức tín dụng bị hạn chế thì quyền mua ngoại tệ của tổ chức kinh tế và cá nhân lại rất rộng. Theo Pháp lệnh Ngoại hối, khi các tổ chức kinh tế và cá nhân có nhu cầu hợp lý về ngoại tệ đều được mua tại các tổ chức tín dụng được phép.
Để giải quyết vấn đề mất cân đối về cung cầu ngoại tệ, gây áp lực lên tỷ giá, Pháp lệnh Ngoại hối cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền sở hữu ngoại tệ của các tổ chức tín dụng theo hướng các tổ chức tín dụng có quyền chủ động mua lại số ngoại tệ của tổ chức kinh tế và cá nhân song cũng có trách nhiệm đảm bảo cung ứng ngoại tệ đầy đủ cho các đối tượng này khi có nhu cầu hợp lý.
- Thứ hai: Cần xem lại các quy định về vay, trả nợ nước ngoài.
Vay và trả nợ nước ngoài là một nội dung rất lớn trong Pháp lệnh Ngoại hối, là một kênh dẫn vốn quan trọng phục vụ cho phát triển kinh tế. Song nếu việc vay, trả nợ nước ngoài không được quản lý chặt chẽ, hậu quả mang lại sẽ rất lớn. Những tác động của dòng vốn ngoại ồ ạt đổ vào Việt Nam trong năm 2007 và sự chững lại trong những tháng đầu năm 2008 kéo dài cho đến nay là những minh chứng cho thấy: việc nới lỏng quản lý thị trường tài chính nhất là nới lỏng quản lý các giao dịch vốn có tác động rất lớn đến sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, và sự an toàn của thị trường tiền tệ.
Dòng vốn ngoại vào nhiều sẽ ảnh hưởng tới khối lượng tiền cung ứng, gây sức ép lên lạm phát và tỷ giá, làm cho VND lên giá so với ngoại tệ. Dòng vốn ngoại vào ít hoặc đảo chiều, trong khi thâm hụt thương mại lớn sẽ gây mất cân đối về cung- cầu ngoại tệ, làm cho VND mất giá và ảnh hưởng tới nguồn dự trữ ngoại hối.
Trước sức ép của hội nhập quốc tế, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay, các quy định về giao dịch vốn trong Pháp lệnh Ngoại hối được điều chỉnh theo hướng nới lỏng và dần dần tự do, các doanh nghiệp và cá nhân cũng dễ dàng tiếp cận vay vốn nước ngoài (Điều 17, Mục III, Chương III Pháp lệnh Ngoại hối).
Do việc quản lý chưa thực sự chặt chẽ đối với việc vay vốn ngắn hạn nước ngoài của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng, một dòng vốn nóng, ngắn hạn từ nước ngoài có thể đã âm thầm chuyển về Việt Nam để hưởng chênh lệch lãi suất. Những tác động của dòng vốn quốc tế nói trên sẽ nghiêm trọng hơn khi mà Việt Nam chưa có kinh nghiệm tạo dựng các rào cản kỹ thuật để đảm bảo sự an toàn của cả hệ thông trong điều kiện hội nhập quốc tế, chống những cú sốc từ bên ngoài.
Theo kinh nghiệm của các nước, việc tự do hóa thị trường tài chính đối ngoại nói chung và tự do hóa các giao dịch vốn nói riêng cần thực hiện theo một trình tự, đó là tự do hóa thị trường tài chính trong nước trước khi thực hiện tự do hóa thị trường tài chính với bên ngoài và phải có đủ ít nhất 3 điều kiện: Có nền kinh tế vĩ mô phát triển bền vững; Có thị trường tài chính, tiền tệ phát triển ổn định; Có quyết tâm cao của các nhà lãnh đạo.
Thực tế cho thấy, thời gian qua chúng ta đã nới lỏng quản lý các giao dịch vốn, khi chưa có đủ điều kiện cần thiết, cộng thêm các yếu tố biến động trên thị trường quốc tế sẽ dẫn đến những bất ổn, hệ thông ngân hàng dễ bị tổn thương.
Để nền kinh tế phát triển ổn định, hệ thống ngân hàng không bị tổn thương, Pháp lệnh Ngoại hối cần sửa theo hướng tăng thêm các điều kiện vay vốn nước ngoài của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, nhằm hạn chế việc vay vốn tràn lan, sử dụng vốn thiếu hiệu quả. Không khuyến khích việc cho phép cá nhân vay vốn nước ngoài.
- Thứ ba: Cần xem lại các quy định về đầu tư ra nước ngoài.
Việc Nhà nước cho phép một số doanh nghiệp đủ điều kiện được đầu tư ra nước ngoài là một chủ trương lớn, đúng đắn. Tuy nhiên trong điều kiện thực tế của Việt Nam, cán cân thanh toán thường xuyên bị thâm hụt, nguồn cung về ngoại tệ chưa được đảm bảo, áp lực lên tỷ giá lớn, nếu khuyến khích việc chuyển vốn ngoại tệ đầu tư ra nước ngoài, càng làm cho cung cầu về ngoại tệ mất cân đối, chưa kể những rủi ro kinh tế khi đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp rất lớn. Do đó Pháp lệnh Ngoại hối cần có những quy định quản lý chặt chẽ dòng vốn này theo hướng các ngân hàng không bán ngoại tệ hoặc cho vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài (Điều 13 Pháp lệnh Ngoại hối). Tăng thêm các quy định chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước về chuyển vốn ra nước ngoài và chuyển vốn, lợi nhuận về nước (Điều 14,15 Pháp lệnh Ngoại hối).
- Thứ tư: Cần xem lại các quy định về cho vay thu hồi nợ nước ngoài.
Nhà nước đang có chủ trương thu hẹp dần việc huy động, cho vay ngoại tệ để chuyển sang cơ chế mua, bán ngoại tệ qua hệ thống ngân hàng, do đó các quy định về cho vay, thu hồi nợ nước ngoài trong Pháp lệnh Ngoại hối cũng cần sửa lại theo hướng quản lý chặt chẽ hơn.
Cụ thể: Điều 19 Pháp lệnh Ngoại hối nên loại bỏ việc các tổ chức kinh tế được cho vay, thu hồi nợ nước ngoài. Đối với các tổ chức tín dụng muốn thực hiện việc cho vay, thu hồi nợ nước ngoài cũng cần có đủ các điều kiện ràng buộc hơn như: Các tổ chức tín dụng phải có quy trình tín dụng chặt chẽ, có cán bộ tín dụng chuyên nghiệp, đảm bảo khả năng quản trị, phòng ngừa rủi ro đối với khoản cho vay.
- Thứ năm: Cần xem lại các quy định về xử lý vi phạm.
Điều 43 Pháp lệnh Ngoại hối quy định về xử lý vi phạm còn chung chung, thiếu cụ thể, chưa phân công rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, do vậy tác dụng răn đe của các biện pháp chế tài còn hạn chế. Theo kinh nghiệm của các nước, vấn đề này được quy định rất rõ ràng cụ thể, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm ở mức độ nào thì căn cứ quy định của luật pháp về vấn đề đó để xử lý.
Phí Đăng Minh
Bài viết cùng tác giả:
> 3 khó khăn khi Nhà nước giữ vàng thay dân